(Phần 2)
Trung bình thì tháng nào cũng có thêm tù mới. Ða số là vượt biên. Nó chẳng hiểu vì sao mọi người lại bỏ nước ra đi nhiều như vậy. Có lẽ vì nhiều lý do: Thứ nhất vì cuộc sống nghèo khó, lại không có tự do làm con người thiếu thốn về vật chất lẫn tinh thần; Thứ nhì có thể vì những người đi trước khuyến khích (trực tiếp như trả tiền cho tổ chức có người thân ở nước ngoài hoặc đi đến nơi rồi trả, gián tiếp như gởi đồ và hình chụp bên cạnh những chiếc xe hơi lộng lẫy hay những bữa tiệc ăn uống hả hê… Thử hỏi, mấy ai nhìn thấy cảnh đó mà không muốn ra đi. Ở lại thì sống cũng như thừa nên cứ liều mình, đánh bạc với số mệnh. Còn những chuyện bất hạnh xảy ra trên biển cả hay ở các trại giam tỵ nạn thì mấy ai biết đến, có chăng thì họ cũng chỉ nghe kể lại chứ nào thấy tận mắt. Người bị hãm hiếp thì có ai đủ can đảm kể lại cho người nhà nghe nỗi tủi nhục của mình, họ chỉ lặng câm mà chịu đựng và chấp nhận cái số phận nghiệt ngã rồi tự an ủi chính mình mà cho rằng đó là định mệnh. Những người chết thì cũng chẳng thể kể lại những gì họ trải qua khi đối diện với tử thần. Người ở lại thì khi thân nhân gặp nạn cũng chẳng ai đem chuyện ra kể cho người ngoài biết, còn khi thân nhân đến được bờ tự do thì mới bắt đầu làm thủ tục khai báo với công an địa phương rằng người đó nghe theo lời của kẻ xấu, bỏ nhà ra đi nên từ nay gia đình tôi không chịu trách nhiệm nữa. Tên trong hộ khẩu được gạch đi, thế là xong. Nhà nước cũng nhẹ gánh vì bớt được một người không giúp ích gì được cho công cuộc xây dựng Chủ nghĩa xã hội vĩ đại hay ít ra cũng bớt được một phần lương thực). Nó nghĩ mà thương quê hương, đất nước. Cái đất được mà mấy ngàn năm rồi chiến tranh tàn phá thiên nhiên và con người như câu hát: “Một ngàn năm nô lệ giặc Tầu. Một trăm năm đô hộ giặc Tây. Hai mươi năm nội chiến từng ngày. Gia tài của Mẹ để lại cho con, gia tài của Mẹ nhà cháy từng hàng… một lũ bội tình…”. Thế rồi tự hỏi lòng, nó cũng khó tìm ra câu trả lời xác đáng. Vì sao nó phải ra đi? Vì tự do? Nó làm gì có lý tưởng hay hoài bão, nó có đấu tranh gì đâu mà lưu tâm đến những thứ như tự do tư tưởng, tự do ngôn luận hay những quyền tự do căn bản khác. Vì vật chất? Nó chẳng ham gì sang giầu, chẳng nề cơ cực nhưng nó cũng chẳng thích gì cái đời sống nghèo hèn quanh năm suốt tháng, làm không đủ ăn, bệnh không đủ thuốc để uống. Nếu hằng năm, gia đình nó bên Mỹ không gởi quần áo về cho, thì chắc nó cũng trở thành “nhất y, nhất quần đại hiệp”.
Mỗi khi có tù mới nhập trại thì mọi người xúm xít lại để hỏi han chuyện ở ngoài. Qua đó, nó biết được cuộc sống mỗi ngày một khó khăn hơn. Ðất nước nó đâu phải chỉ là đồng hoang, cằn khô sỏi đá, đâu phải thiếu nhân tài và tuổi trẻ đầy nhiệt huyết để xây dựng quê hương nhưng trải qua bao nhiêu thế hệ và từng chế độ, những người lãnh đạo chỉ mưu cầu danh lợi cho bản thân. Tuổi trẻ bị đẩy vào những cuộc chiến phi lý bằng những ý thức hệ phi nhân để giết hại lẫn nhau rồi được đánh bóng bằng những từ ngữ như lý tưởng, tự do, độc lập hay bằng những mục đích cao cả khác. Làm gì có lý tưởng hay mục đích nào là cao cả khi một thiểu số ngồi trên hưởng thụ còn đại đa số phải lầm than cơ cực. Làm gì có chân lý nào dẫn dắt con người đến chỗ giết hại lẫn nhau để hận thù trở thành một chủng tử di truyền từ đời này sang đời khác…
- Mưa! Mưa! Chuẩn bị kéo nước.
Giọng Vũ gọi nó trở về với hiện tại. Mọi người đã sẵn sàng thùng nhựa và dây kéo nước. Mây đen kéo đến dậy đặc và mưa trút xuống rào rào trên mái nhà trại giam. Lần đầu thấy cảnh câu nước trong tù nên nó thấy ngộ nghĩnh. Tù nhân chờ vài phút cho nước cuốn hết bụi và lá úa trên mái cho sạch rồi quăng ra sân những cái thùng nhựa có khoét lỗ trên mặt. Quai thùng được cột với sợi dây. Cái thùng được kéo vào đúng vị trí nơi nước mưa chảy xuống từ mái nhà giam. Mưa to nên chỉ một lúc sau nước đã đầy bình. Cái bình này kéo vào thì cái bình khác lại được quăng ra, lúc bình nước đến tay người tù chỉ còn hơn phân nửa. Nước mưa được gạn lọc lại rồi đổ vào bình chứa để uống. Khi các bình chứa đã đầy, nước mưa được đổ vào cái lu nơi góc cầu để làm vệ sinh và tắm giặt. Người nào làm vệ sinh hôm đó thì được ưu tiên tắm trước. Hôm nào trời mưa kéo dài thì tù nhân được tắm thoải mái bằng xà-bông. Nó tham dự kéo nước với mọi người. Nhìn bong bóng nước vỡ trên sân, nó nhớ lại hôm nào cùng nàng đứng nép dưới hiên và nhìn bong bóng bập bềnh trôi trên vỉa hè… Hôm đó, nàng thấy con bươm bướm trôi tuyệt vọng trên dòng nước và đang cố vỗ cánh để bay lên nhưng đôi cánh của nó đã ướt sũng nên đuối sức dần, đập mỗi lúc một yếu hơn như đang giẫy giụa níu lấy sự sống.
- Ơ! Con bướm kìa. Thanh ra vớt lên đi. Nó chết mất.
Nhìn con bướm đang giẫy chết trong mưa, nó nghe lời nàng rồi chạy nhanh ra, vớt con bướm lên. Ðôi cánh nó trắng như tuyết với những nét màu xám hài hòa và những đốm đen cân đối, trông rất đẹp.
Nó đưa con bướm cho nàng.
- Nè.
- Thanh để nó lên cánh cửa đi. Tạnh mưa, cánh khô nó sẽ bay.
- Ðố Châu biết con này đực hay cái?
Nàng vừa lắc đầu vừa nói:
- Làm sao mà biết được.
- Bướm cái.
Nó giải thích tiếp:
- Tại vì cánh và mình nó thon. Hơn nữa, mấy con bướm được không có đẹp như vậy đâu.
Mắt tròn xoe, nàng hỏi:
- Làm sao Thanh biết?
Lỡ “phịa” nên nó nói đại:
- Hồi nhỏ, Thanh đọc trong sách á.
Tưởng nó nói thật nên nàng gật gù theo rồi mỉm cười như vừa học hỏi thêm được một điều mới lạ…
- Ê! Nước đầy rồi kìa. Kéo vào đi.
Ðình quăng cái bình ra sân, hỏi thêm:
- Mơ gì vậy cậu?
- Không có gì.
- Nhớ nhà hả?
- Ừ.
“Mưa vẫn hay mưa cho đời biến động, buổi chiều ngồi ngóng những chuyến mưa qua, xin hãy cho mưa qua miền đất rộng, để người phiêu lãng quên mình lãng du… chiều nay còn…”.
Nó cất tiếng, hát vu vơ. Lời nhạc hòa với tiếng mưa rơi nghe thật buồn rồi vọng xa về phương trời nào đó…
Thấm thoắt đã bốn tháng trôi qua, từ ngày nó chuyển lên trại giam tỉnh. Lần thăm nào, chị nó cũng mang cho chút hy vọng là sắp được tha về. Một hôm, trước ngày giải tù đi lao cải ở Mộc-Hóa, nó nghe gọi tên và được lệnh thu xếp đồ đạc cá nhân. Mọi người trong phòng nghĩ rằng nó được tha về vì nếu phải đi lao động, thì nó đã phải chuyển phòng từ tuần trước rồi. Mọi người còn bàn tán thì gã công an trở lại.
- Xong chưa? Gã hỏi như hối thúc
Nó vẫy tay chào mọi người và bước ra khỏi phòng rồi hồi hộp đứng chờ gã công an chỉ hướng đi. Nếu qua bên phải thì nó được tha về còn nếu qua bên trái thì nó đi lao động. Gã công an khóa cửa tù xong, nhìn nó chỉ về phía bên trái. Vậy là nó nắm chắc số phận của mình. Tối đó, Tuyến gởi qua cho nó một xách đồ ăn để đem theo. Buổi tối, nó thao thức vì nhớ gia đình và nhớ nàng rồi lấy bao thuốc lá làm giấy viết thư.
Trằn trọc đêm tù, thư thăm Bố
Bây giờ, Bố hẳn gầy hơn xưa
Tóc nay đã bạc, màu thương nhớ
Trán đã nhăn nheo, nếp khổ sầu
Canh thâu thao thức, nằm không ngủ
Bố vẫn từng đêm trắng, nguyện cầu?
Hôm đi Bố dặn rằng: Qua đó
Hãy sống sao cho đáng phận người
Ðừng tham danh lợi mà quên nghĩa
Chớ thấy công danh phụ rẫy tình
Những lời khuyên dạy, con ghi khắc
Làm gói hành trang suốt cuộc đời…
Viết xong bài thơ “còn non mùi sữa” cho Bố, nó viết cho nàng lá thư.
Châu, khi em đọc những dòng chữ này thì anh đã chuyển đi lao động xa rồi. Em đừng bận tâm và cũng đừng đi thăm anh vì đường rất xa mà sức khỏe em lại yếu. Không biết đến khi nào anh mới được về. Quen nhau chẳng bao lâu mà anh đem lại cho em nhiều muộn phiền quá phải không? Thời gian chờ đợi là thời gian đáng ghét nhất, nó dài như không muốn trôi. Nếu như định mệnh có mang em đến bến nào, thì em cứ xem như anh đã ra đi mãi mãi và nhớ rằng anh chẳng bao giờ trách em đâu. Có trách chăng, anh chỉ trách mình sinh nhằm quê hương và nhằm thế kỷ, như câu hát nào đó. Nhưng cho dù có nhằm thì anh vẫn trân trọng đón nhận vì nơi đó có em và nơi đó anh đã gặp em. Buồn cười quá em nhỉ? Cái mình yêu thì mình lại phải rời xa và chính sự chia xa làm mình càng yêu nhau hơn, cũng như càng khôn lớn thì mình càng nuối tiếc cho tuổi thơ đã trôi qua. Muốn viết thật nhiều nhưng hoàn cảnh không thuận tiện. Em ráng giữ gìn sức khỏe. Cầu chúc em luôn an vui và may mắn.
Thương nhớ…
Nó đọc lại bài thơ và lá thư rồi giấu vào xách đồ ăn để sáng mai chuyển lại cho Tuyến gởi về nhà. Nó dựa lưng vào tường, đánh lửa mồi thuốc hút. Trời đã vào khuya, dường như mọi người đã ngủ cả. Ðêm trại giam yên như tờ, tiếng ngáy của ai đó ở phòng kế bên vọng sang, tiếng vo ve của những con muỗi đói ở ngoài mùng, tiếng cánh của côn trùng đập vào bóng đèn huỳnh quang trên trần, tiếng răng rắc của những cành cây trở mình trong đêm, tiếng gió rì-rào tự tình với lá, tiếng lửa cháy tanh-tách ở điếu thuốc lá rồi tiếng lê dép lẹp-xẹp của gã công an trực đêm vọng lại. Nó dụi tắt thuốc và nằm xuống ngủ.
Mới hơn năm giờ sáng mà trại giam đã lao xao. Tù nhân chuyển trại đi lao động đang xếp hàng, đếm số rồi ngồi giữa sân. Nó hít một hơi dài, căng đầy lồng ngực. Thanh khí làm nó thấy sảng khoái. Toán công an áp giải cầm súng đi tới đi lui. Phòng giam nào cũng nhốn nháo tù tiễn đưa thân nhân, bạn bè lên đường đi lao cải. Buổi chia ly nào cũng buồn dù ở bất cứ không gian, thời gian nào.
Nó nhìn gã công an gần đó rồi đưa tay lên, nói:
- Báo cáo cán bộ…
- Cần gì? Gã công an hỏi
- Cho tôi gởi lại xách đồ cho anh tôi ở phòng ba-mươi-sáu.
- Ði nhanh lên.
Gã công an cũng dễ dãi không khám xét gì khi nó cầm xách đồ chạy lại phòng giam anh nó.
- Có chuyện gì vậy? Tuyến hỏi
Nó đẩy cái xách qua song cửa tù.
- Anh giữ lại cái này đi.
Tuyến đẩy ra lại.
- Thôi. Mày đêm đi mà dùng.
- Có lá thư. Khi nào chị Luận lên thăm, anh đưa chỉ mang về nhà.
- Mày đem cái xách đồ ăn này theo, chứ lên đó phải lao động cực lắm đó.
- Anh đừng lo cho em. Ráng giữ gìn sức khỏe nhé. Thôi, em đi.
Nắm tay Tuyến, nó quay đi rồi để lại cái xách và thoáng bùi ngùi ở lại. Vũ và Ðình nhìn nó, vẫy tay chào.
- Ði mạnh giỏi… Anh rể nó vẫy tay nói với theo
Nó ngoái lại, mỉm cười và vẫy chào mọi người. Tuyến vẫn đứng nhìn, ánh mắt như muốn gởi theo thương yêu để làm hành trang cho nó trước giờ chia biệt. Trời không mưa cũng chẳng có sương mù, thế mà cảnh vật lại nhòa đi trong mắt nó…
Sau khi áp giải bằng xe ra đến bờ sông, đoàn tù được chuyển xuống ghe vì không có đường xe chạy đến trại lao cải. Tất cả bị dồn lên hai chiếc ghe lớn. Vài đứa con nít nhà ở gần đó tò mò chạy lại xem nhưng bị toán công an đuổi đi. Mặt trời mới lên còn vàng ửng một góc trời, phản chiếu lung linh trên dòng sông nhưng chẳng ai trong đoàn tù ngắm nhìn. Dường như ai cũng hoang mang về “điểm hẹn cuối cùng” mà mình sắp tới, một vùng khỉ ho cò gáy, đất cày lên sỏi đá hay một chốn rừng thiêng nước độc nào đó. Một cô gái trong đoàn tù bỗng nhiên bật khóc rồi vài cô khác cũng thút thít khóc theo, nghe buồn ảo não… Ðến chiều, sau khi áp giải lên bờ, đoàn tù phải đi bộ thêm mấy cây số đường đất nữa mới tới nơi.
“TRẠI CẢI TẠO”. Tấm bảng treo ngay cổng trại, hai bên cổng là hai chòi canh cao khoảng 5-6 thước. Chung quanh trại là hai lớp hàng rào kẽm gai và sáu chòi canh phụ. Bên trong, tù cải tạo lố nhố chờ nhận diện “trại viên” mới. Nó nhìn thoáng qua, thấy người nào cũng đen thủi như “mọi”. Ðoàn tù đếm số, lần lượt đi vào “rọ”. Tất cả trại viên mới phải qua thủ tục khám xét, trước khi cho vào đội. Trong trại chỉ có một đội nữ nên khám xét xong, nữ tù được chuyển thẳng vào chung một đội. Số còn lại tập trung vào căn cuối cùng để lập thành một đội mới. Mọi người tự lấy chỗ cho mình, một số tranh thủ làm móc để treo đồ đạc và thức ăn, một số loay hoay làm bếp. Bỏ cái giỏ lác và tấm chiếu xuống đất để nhận chỗ cho mình xong, nó ra ngoài nhìn quanh trại một vòng. Có mười cái nhà tôn, mỗi bên năm cái. Một cái không có vách kín (nơi mà lúc nãy mọi người tập trung vào đó để xét đồ) dùng làm hội trường. Một cái là đội nữ. Một cái làm nhà bếp. Còn lại là bảy đội nam. Mỗi đội ngăn cách nhau bởi cái ao nước phèn (ăn thông với nhau bằng con kênh đào qua trại). Mỗi ao có bốn cái cầu gỗ, nơi trại viên tắm giặt và rửa chén, nồi hay để làm cá, rửa rau… Cả ngày đường vừa nắng vừa bụi, vừa sình lầy nên nó thấy khó chịu vì thân thể nhớp nhúa, nó trở vào lấy cái ca và cục xà-phòng ra cầu gỗ ngồi tắm. Nó vừa tắm vừa quan sát sinh hoạt trong trại. Một toán vừa đi lao động về, nước da người nào cũng đen đúa, mặt mày thì lem luốc, một số ở trần, một số mặc loại áo làm bằng vải bố. Nhìn họ vác cuốc xẻng mà nó ngỡ như họ đến từ một bộ lạc nào đó. Cạnh đội của nó là dãy nhà vệ sinh, nó nhìn qua để tìm Long và Ðệ nhưng nếu có thấy chắc cũng khó mà nhận ra vì người nào trông cũng như nhau. Tắm xong, nó vẫn cảm thấy rin rít trên da vì chất phèn trong nước. Nó đi vào thay quần rồi lấy trong xách điếu thuốc và miếng kẹo mè, ra ngoài ngồi ngắm trời chiều. Mặt trời đang lặn, trông như cái lòng đỏ trứng nổi bật giữa nền chiều với những áng mây đủ màu sắc. Ðã nhiều lần ngắm cảnh chiều tàn nhưng có lẽ, chưa bao giờ nó thấy bầu trời đẹp như vậy và có cảm tưởng như mình hòa lẫn vào đó. Tất cả dường như không còn gì hiện hữu ngoài bầu trời trước mắt nó. Nó không còn nhận biết rằng mình đang ở trại cải tạo, không có cả cái ý thức về chính mình và lòng nó lâng lâng một niềm vui kỳ lạ rồi tâm hồn nó lang thang, lạc vào cánh đồng cỏ xanh rì. Nó thấy mình đang nắm tay nàng, chạy nhảy tung tăng…
Nó chỉ về phía chân trời và nói:
- Châu coi trời chiều kìa!
Nàng reo lên:
- Ô! Ðẹp quá.
Nó kéo tay nàng, cùng nhau chạy về phía mặt trời lặn. Vài cặp chim tìm mồi trên cỏ đang hót ríu rít, xa xa vài đôi bướm vởn vơ trên những cành hoa dại. Những áng mây đổi màu theo thời gian. Cả hai cùng dang rộng đôi tay như muốn ôm cả vòm trời trước mặt rồi nàng vấp ngã, níu nó theo. Cả hai nằm sóng xoài, lăn trên bãi cỏ còn vương lại những vệt nắng loang lổ, nhạt dần theo ánh mặt trời đang khuất lần nơi chân trời rồi nó và nàng ôm nhau, hôn đắm đuối…
- Anh kia! Có nghe lệnh tập họp không?
Nó giật mình, nhìn người đàn ông lạ hoắc đeo tấm bảng nhỏ ghi hai chữ “ÐẠI DIỆN” rồi đứng lên, lững thững đi vào. Tất cả ngồi thành bốn hàng dọc, chờ chỉ thị của “đại diện”. “Nghi thức” đầu tiên vẫn là đếm số, sau đó “đại diện” báo cáo lại cho “cán bộ quản giáo” và chờ lệnh. Sau khi “lên lớp” xong, gã cán bộ giới thiệu với đội người đàn ông nãy giờ đứng khép nép bên cạnh mình.
- Từ nay, anh Thơm sẽ là đội trưởng. Các anh có chuyện gì thì báo cáo với anh Thơm để xin giải quyết. Có anh nào thắc mắc gì nữa không?
Một số người lên tiếng:
- Báo cáo không.
Sau đó, Thơm chia đội ra thành sáu toán, mỗi toán bầu ra một toán trưởng và tiếp theo là phần học tập nội quy với điều lệ của trại.
Sau hai ngày dưỡng sức, đội nó được phân công đi lao động. Buổi sáng, khi nghe ba tiếng kiểng thì toàn trại tập họp ngay trước đội để điểm danh và nhận lệnh. Nó thuộc toán cắt cỏ lúa, phải đi mấy cây số mới ra tới hiện trường. Lần đầu tiên làm công việc đồng áng nên nó lúng túng, cầm cái liềm cứa mãi mới đứt được nắm cỏ. Có lúc, nó cắt luôn cả lúa non vì không phân biệt được. Cỏ cắt xong được gom thành bó và mang về trại phơi khô để làm nhiên liệu nấu bếp. Công việc nhẹ nhàng nhưng chưa quen nên lưng nó ê ẩm vì phải khom cả ngày. Một tuần làm việc sáu ngày, chủ nhật tuy không phải đi lao động nhưng lại làm vệ sinh trong đội rồi họp và kiểm điểm. Hôm nào lao động cả ngày thì trại viên được phát thêm một phần ăn ngoài hai phần chính trong ngày, nếu lao động nửa ngày thì kể như “xù”. Ðược hai tuần thì nó quen dần với sinh hoạt trong trại. Tối nào cũng vậy, từ lúc có kiểng báo ngủ đến khi nghe kiểng báo thức, trong đội chia nhau mỗi toán ba người để trực một tiếng. Có tối đang ngủ ngon, nó bị gọi dậy để gác. Nhìn ánh trăng khuya, nó lại thấy nhớ nàng khôn nguôi, cũng vầng trăng đó mà ở nơi này nó thấy hiu hắt và lạnh lẽo làm sao. Ở trại có một bệnh xá(!) để chẩn bệnh cho trại viên, còn thuốc trị thì phải tự túc nói gia đình gởi vào theo quy định của trại. Có thể nói, điều sung sướng duy nhất mà nó tìm được là những lần đi đại tiện ở hồ nuôi cá tra (khi đi lao động ở ngoài trại), có hương đồng và gió nội để ngồi mơ mộng, ngắm trời mây (thỉnh thoảng nghe tiếng bì bõm của những con cá giành phần dưới hồ), chẳng phải khổ sở như những lần phải dùng dãy cầu vệ sinh tập thể (chỉ có mùi hôi thối và tiếng vo ve của những bầy ruồi chuyên chở mầm bệnh tiêu chảy, dịch tả…). Một buổi chiều, đi lao động về, nó đang ngồi tắm thì thấy Long và Ðệ lon ton đi vào khu cầu vệ sinh cách đôïi nó cái ao.
Nó vẫy tay và gọi hỏi thăm:
- Khỏe không?
Nhận ra nó, Ðệ thì cười ruồi còn Long hơi ngạc nhiên, hỏi:
- Ủa! Thanh. Tưởng được về rồi chứ. Anh Sơn với Tuyến đâu?
- Còn ở dưới Long An. Thanh lên một mình.
- Anh lên đợt vừa rồi hả? Ðệ hỏi
Nó gật đầu.
- Anh có cần gì thì xin qua đội-hai gặp tụi này. Ðược thăm nuôi chưa? Ðệ hỏi thêm
Hỏi han được vài câu thì Long, Ðệ phải đi vì nội quy cấm trại viên khác đội liên lạc với nhau và phần vì phải tranh thủ đi cầu…
Hơn một tháng sau, nó chuyển qua đội-hai và nhập bọn chung với Long, Ðệ, Hải, Khanh, Tự và Sơn-cận. Có thêm “người cùng khổ” nên đời sống trong trại cũng bớt lẻ loi, buồn tẻ phần nào. Từ đó, nó biết nhiều hơn về những sinh hoạt trong trại. Ðội nào mang số chẵn là đội chính trị gồm vượt biên và thành phần đấu tranh, chống chế độ, nói chung là những người thuộc thành phần “đối lập”. Những đội mang số lẻ là đội hình sự, thuộc thành phần “anh chị” và “bần cùng sinh đạo tặc”. Kiểng đánh một tiếng: gọi cán bộ trực, đánh hai tiếng: gọi đại diện, đánh ba tiếng: báo giờ ngủ và thức, đánh liên tục: báo động, trại viên dù đang làm bất cứ việc gì cũng phải trở về đội của mình. Gần cổng trại, giữa hai lớp hàng rào là cửa hàng bán tạp hóa của trại, do một nữ cán bộ cai quản. Những ngày lễ lớn, trong trại tổ chức thi đua lao động, thể thao và biểu diễn văn nghệ. Cuối tuần, những người lao động tiên tiến được coi vô tuyến truyền hình ở hội trường và đến kỳ thăm nuôi mỗi tháng được “cầm tay” một đêm (được ra nhà thăm nuôi ngủ lại với vợ, cũng chính điều này làm một số phụ nữ có chồng đang học tập cải tạo bị tai tiếng vì đôi khi mang thai). Ðội nữ cách đội nó cái ao nên thỉnh thoảng Khanh chỉ vị hôn thê của mình với nó. Ðôi lần, nó thấy Trí và Nga. Ngoài đời Nga trang điểm phấn son và chưng diện nên còn đẹp. Gái thuyền quyên chỉ qua một cơn lốc đời là đã tiều tụy, hốc hác. Ðội nữ có gần sáu mươi người vậy mà nó không “chấm” được ai cả. Nó nghĩ, nếu bây giờ nàng xuất hiện ở nơi này thì nàng sẽ nổi bật như một đóa cúc trắng tươi mát giữa những cánh hồng đang héo rũ. Nàng có nét đẹp tự nhiên, chẳng cần son phấn. Cái đẹp ở nàng càng ngắm nhìn càng say đắm. Nàng như có sức hút vô hình của thanh nam châm, trong khi nó như mảnh kim khí, càng gần nàng thì càng bị hút chặt vào. Chiều chủ nhật nếu không có công tác gì trong đội thì cả nhóm ngồi “chặt cốt” (uống trà, ăn đồ ngọt và hút thuốc lào) rồi nghe nó, Sơn-cận, Ðệ thay phiên hát nho nhỏ những bài tình ca. Công việc ở trại dường như không bao giờ hết. Mùa lúa thì nhổ cỏ, gặt lúa… Mùa nước dâng thì lột vỏ cây, đẩy phà, khiêng đất… Mùa nước cạn thì đào kênh, xây cất… Thời gian lặng lẽ trôi… Mùa mưa đến, trời bắt đầu lạnh vậy mà sáng sớm trại viên đã phải ngâm mình dưới nước để lột vỏ cây tràm rồi đem phơi lấy sợi, thân cây dùng để làm cột xây nhà. Hôm đầu tiên, khi vừa nhúng chân xuống nước nó đã rút lên vì lạnh. Nó còn chần chừ, chưa kịp nhảy xuống con kênh thì đã nghe tiếng gã đội trưởng quát tháo.
- Anh kia chưa nhảy xuống đi hả?
Nó quýnh quáng, nhắm mắt và nhảy ùm xuống kênh. Nước lạnh cóng đến thấu xương, vậy mà mỗi khi nó đứng thẳng người lên thì lại lạnh hơn lúc ngâm mình dưới nước vì gió thổi. Thân cây ngâm dưới nước lâu ngày bị rã mục nên vừa hôi vừa nhớt. Mới đầu, nó cảm thấy rờn rợn khi chạm vào thân cây nhưng rồi cũng quen dần. Mấy giờ liền ngâm mình dưới nước mà nó chẳng nghe người nào lên tiếng xin “cán bộ trông coi” co đi tiểu tiện. Có lẽ, ai cũng như nó, cứ “làm nóng” ngay tại chỗ. Vài tuần thì công việc lột vỏ cây hoàn tất. Trại viên được phân công đi đào đất để đắp đập ngăn nước. Có khi nó ở trong toán đẩy phà, có khi ở trong toán khiêng đất. Hôm nào đi đẩy phà thì đỡ cực hơn vì chỉ phải truyền đất lên phà rồi đẩy đi. Những cục đất chừng nửa mét khối được xắn vuông vắn từ mặt đất ở dưới nước, trở nên nhẹ hơn nhờ sức đẩy của nước. Có khi thiếu phà, trại viên phải chuyển đất theo phương pháp dây truyền lên bờ kênh rồi một toán khiêng đất để đắp nền nhà, gặp lúc trời mưa nên đất nặng và đường trơn, làm nó vấp ngã mấy lần, trông thật thảm thương. Nó đi cặp với Sơn-cận. Nhìn Sơn-cận đeo sợi dây (được móc vào hai tay cầm của cái cáng đan bằng nứa), nó chợt hình dung ra cảnh trong một cuốn phim tù đày và tưởng tượng nó với Sơn-cận đóng vai chính rồi sẽ có cảnh vượt ngục, trốn trại… Nó sẽ bị bắn và chết thảm thương, để lại nỗi ngậm ngùi cho khán giả… Nhưng nó lại nghĩ đến nàng, không muốn nàng phải xót xa nên nó cho mình trốn thoát và trở về gặp lại nàng. Nó sẽ bị truy nã để cuối cùng phải vượt biên lần nữa và phim sẽ kết thúc khi con tàu ra khơi, lênh đênh trên biển cả… Nghĩ đến đó, nó bất giác cười thành tiếng.
- Cười gì “ngài” ! Sướng lắm sao? Sơn-cận hỏi
- Cười để quên sầu. Trời mưa buồn quá ha!
- Ừ. Mưa ướt cả mắt kính, chẳng thấy đường để đi nữa.
- Phải chi có mấy cái xe đẩy thì đỡ biết mấy.
- Lao động cải tạo mà. Lúc nãy, té có đau không?
- Chỉ trầy trụa chút thôi.
- Hai anh kia. Ði lẹ lên, đếm số coi. Gã toán trưởng gọi
- Một.
- Hai.
Mọi người lần lượt đếm theo và sau đó trưởng toán báo cáo lại với cán bộ trông coi. Có lẽ vì trời mưa, hơn nữa gã cán bộ là người dễ tính nhất trại nên mặc dù chưa hoàn tất chỉ tiêu, gã vẫn ra lệnh cho về trại. Trời mưa càng lúc càng nặng hạt hơn. Ðến cổng trại, toán khiêng đất phải đứng lại chờ vì nữ trại viên lao động về và đang đếm số để vào trại. Ðoàn tù ướt mem, run lẩy bẩy trong gió. “Từng đôi mắt mang hình viên đạn” nhìn về phía nữ tù vì thương hại cho những cánh hoa trong gió bão (hay cũng có thể tại những đường cong sau lớp vải áp sát vào thịt da, vì mưa gió)…
Sơn-cận ôm cây đàn, khảy những hợp âm cho cung la-thứ rồi khẽ hát bài “ướt mi”. Tiếng đàn rải đều theo điệu Boston hòa cùng tiếng mưa rơi ngoài trời, nghe buồn réo rắt. Nó ngồi dựa lưng vào vách, uống một hớp nước trà nóng và cầm điếu thuốc lào, kéo ro ro một hơi dài rồi nhả khói ra chậm rãi, mơ màng nghe Sơn-cận ngân nga khúc nhạc đầu tay của Trịnh Công Sơn.
Hát xong, Sơn-cận hỏi nó:
- Thanh biết bài “giọt mưa thu” không?
- Biết chứ. Bạn bè gọi mình là “con sâu nhạc” mà. Tui khoái câu “nhân thế bao la sầu…”.
- Sao có vẻ bi quan quá vậy?
- Có người nói ra toàn những chuyện bi quan nhưng họ lại yêu đời, chẳng qua là họ chỉ nói ra sự thật mà thôi. Trái lại, có người lúc nào cũng ra vẻ lạc quan nhưng “đùng” một cái thì nghe tin họ tự tử rồi.
Nó ngừng lại, nhìn Sơn-cận rồi hỏi:
- Sơn có tin vào số mạng không?
Sơn-cận trầm ngâm suy nghĩ rồi trả lời:
- Vừa tin vừa không.
- Tại sao vậy?
- Tại vì đôi khi con người dựa vào số mạng để an ủi và đánh lừa lúc đó họ cảm thấy mình yếu đuối và tuyệt vọng nên phải dựa vào cái gọi là số mạng để vỗ về tâm hồn mình.
Sơn-cận nói xong, dựng cây đàn vào vách và tháo kính ra, dụi mắt rồi hỏi lại nó:
- Còn Thanh thì sao?
- Tui hả? Tui tin vào chính mình và nhân quả. Số mạng của mỗi người do chính họ đặt ra và quyết định lấy. Nếu bảo rằng có một đấng quyền năng quyết định cuộc đời của mọi người, thì tại sao con người lại mưu cầu cái gọi là hạnh phúc bằng cách tranh giành quyền lợi và danh vọng để rồi ám hại lẫn nhau? Không lẽ chính đấng tạo hóa muốn như thế? Cô bạn của tui thường nói “tài đức thắng số”. Tui cũng nghĩ vậy. Mình cứ ăn ở và hành động đúng với lương tâm thì chẳng có gì để bận tâm hay lo buồn. Ở hiền thì gặp lành, gieo gió thì gặt bão. Cổ nhân đã nói thế…
Sơn-cận vẫn lắng nghe nó thao thao.
- …Ða số mọi người tin vào thượng đế, hay nói chung là tin vào một đấng quyền năng, có thể ban phát cho mình những nhu cầu về tinh thần hoặc vật chất, chỉ là để cầu xin hạnh phúc, chứ ít ai chịu hiểu rằng hạnh phúc không phải là cái cầu xin mà có được và thượng đế chính là tuyệt tác của lý trí con người. Hay nói cách khác, chính con người sáng tạo ra hình ảnh thượng đế. Thời cơ sẽ chẳng đến nếu mình cứ ngồi chờ. Cơ hội đến, nếu mình không nắm lấy để tạo ra thời cơ thì nó sẽ vuột mất.
- Thanh nói rằng hành động với lương tâm thì chẳng có gì để buồn lo. Vậy hiện tại, Thanh có thấy buồn không? Sơn-cận thật thà hỏi
- Ý bạn muốn hỏi về thời gian hiện tại hay không gian hiện tại?
Sơn-cận còn phân vân thì nó nói tiếp:
- Nếu ở thời gian hiện tại thì tui không thấy buồn vì cái cảm giác đó ngay lúc này không có. Còn nếu ở không gian hiện tại thì dĩ nhiên, có ai vui khi ở trong tù bao giờ.
- Thanh tin vào nhân quả, vậy thì phải chăng Thanh đã làm điều gì bất thiện nên giờ bị quả báo, phải ở trong hoàn cảnh này?
- Cứ cho là như vậy nhưng đừng bao giờ tự hỏi tại sao tôi ăn ở hiền lành mà đời tôi lại khốn khó. Nếu bạn ăn ở hiền lành chỉ vì mong được công đức, tức là bạn muốn được trả công hay đền đáp, thì việc bạn ăn ở hiền lành đã có điều gì bất lành, hay nói cách khác là bạn đã có lòng tham rồi, phải thế không?
Sơn-cận gật gù, nửa như tán đồng nửa như chưa thỏa mãn nên hỏi:
- Ăn ở hiền lành mà gặp điều bất hạnh thì ăn ở hiền lành để làm gì?
- Chân lý là làm lành mà không cầu được phước. Phước tự đến với mình khi đủ nhân duyên. Bạn trồng cây, có khi mười năm sau nó mới ra trái, có khi chưa kịp ra bông thì nó đã chết rồi. Những nhân lành bạn gieo bây giờ, có khi vài năm sau nó ra quả nhưng cũng có khi phải đến vài trăm năm sau, nghĩa là phải đến kiếp sau. Nhân quả là một chuyện, nhân duyên lại là một chuyện khác.
- Thanh tin rằng sau khi chết, người ta sẽ tái sinh vào kiếp khác?
- Luân hồi là chuyện thường tình. Vạn vật đều chuyển động theo chu kỳ nào đó. Chẳng hạn như trái đất quay quanh mặt trời đúng một vòng thì một năm trôi qua và năm mới lại bắt đầu. Bốn mùa cũng luân chuyển theo năm tháng. Ngày và đêm cũng tuần tự đến và đi rồi trở lại. Ngay cả hơi thở và máu của cơ thể mỗi người cũng phải tuần hoàn, vào rồi ra trong phải và tim. Vậy thì, con người sinh diệt trong một kiếp để rồi lại tiếp tục sinh diệt theo một kiếp khác, chuyện đó cũng đâu có gì là phản khoa học.
- Thanh nghĩ sao về hiện tượng thần đồng?
- Có những người thuở nhỏ đã thông minh tuyệt đỉnh, cũng có người sống gần hết đời mà vẫn khù khờ. Thực vật cũng vậy, có loại hiền và cũng có loại dữ. Thế giới này lúc nào cũng có sự khác biệt. Chính những điều trái nghịch đó làm cuộc sống chuyển động, giống như hai cực âm dương của dòng điện hay tính chất tương phản của mọi hiện tượng trong đời sống như mưa và nắng, nóng là lạnh, vui và buồn, thương và ghét,… Ðời người có khi lên, khi xuống thì mới cảm nhận được lẽ sống và sự kỳ diệu của tạo hóa.
Sơn-cận mỉm cười, hỏi:
- Thanh dùng chữ “tạo hóa”, phải chăng muốn nói đến thượng đế?
- Tạo hóa ở đây là vạn vật, là cái “tất cả”, không có phân chia.
- Thanh cũng triết lý dữ há! Ðọc trong sách hay tự mình cảm nghiệm vậy?
- Tiếp nhận ở sách vở một phần, một phần ở cuộc sống và một phần do suy nghiệm.
Trời vẫn mưa tầm tã. Long, Ðệ, Khanh và Hải đi đẩy phà ca-hai chắc cũng sắp về. Nó nhìn bong bóng nước nổi lên và tan đi vội vã dưới ao ngoài hiên rồi bất giác nhớ đến nàng và thầm gọi “Châu ơi…”.
Ngày thăm nuôi ở trại tù thường là ngày nhộn nhịp nhất. Mấy kỳ thăm muôi rồi, nó không được ra gặp mặt vì chị nó gởi người quen mang đi, lần này được gọi tên nhưng nó không lấy làm vui cho mấy. Nếu không phải để hỏi thăm về gia đình và về nàng thì thật tình nó không muốn gặp chị trong hoàn cảnh hiện tại. Nó biết rằng mình chỉ là “cái nợ” của chị. Bước vào phòng thăm, nó ngạc nhiên khi thấy Thơ và Loan. Chậm rãi ngồi xuống ghế, nó mỉm cười và giơ tay chào qua khung lưới ngăn cách.
- Hai bạn vẫn thường? Ở nhà có gì lạ không?
- Nhìn Thanh thấy khác nhiều. Loan nói
Thơ nhìn nó với ánh mắt ngỡ ngàng. Hơn nửa năm không gặp nhau, nó trông có vẻ khỏe và cứng cỏi hơn lúc trước vì nước da sạm đen và mái tóc hớt ngắn như “tân binh”.
- Châu về lại ÐALAT rồi. Thỉnh thoảng, tui cũng rủ Châu đi chơi và đi nghe nhạc. Châu nhắc về “bồ” hoài.
- Thơ xuống Sài-Gòn lâu chưa? Nó hỏi
- Mới xuống tuần trước.
Nó nhìn Loan, hỏi:
- Loan thì sao? Có lên ÐALAT chơi không?
Loan lắc đầu, trả lời:
- Từ khi Nga bị “kẹt”. Loan cũng ít đi chơi. Ði một mình sợ lắm.
- Sợ Thơ bắt cóc hả? Nó đùa
Loan mỉm cười:
- Thanh lúc nào cũng giỡn được.
- Loan gặp Nga chưa?
- Vừa mới gặp xong. Loan đem giùm đồ thăm nuôi cho gia đình nó. Nhìn “cô nàng” thấy già đi nhiều. Loan đến chơi với Châu hoài. Hai đứa thân với nhau lắm rồi. Tháng trước, Loan có gặp Thu, Thu gởi lời thăm và nhắn Thanh ráng “học tập tốt để sớm được khoan hồng”.
Thơ kể nó nghe chuyện đi đường. Mỗi lần đến trạm kiểm soát, Thơ phải giả vờ ngủ vì không có giấy thông hành, cũng may là công an không hỏi giấy tờ vì biết ghe đưa người đi thăm nuôi tù cải tạo. Cứ nhìn những bao lát cồng kềnh cũng đủ biết, hơn nữa khúc sông đó chỉ đưa đến trại cải tạo. Thơ hỏi thăm về đời sống trong trại và chúc nó sớm được tha về.
- Anh Sơn với anh Tuyến sắp được về chưa? Nó hỏi chị
Chị nó lắc đầu ngao ngán:
- Chưa. Họ cứ hẹn lần, không biết đến bao giờ.
Chị em, bạn bè hỏi han nhau được vài câu thì thời gian gặp mặt đã hết. Vài người trong phòng thăm bắt đầu sụt sịt, nước mắt rưng rưng. Mấy cô nữ trại viên, người nào mắt cũng đỏ hoe. Thương sao cho kiếp má đào truân truyên…
Ðang ngồi “chặt cốt” với nhau thì Hải-Mập vào, báo tin:
- Mấy “huynh” ơi. Trại viên mới tới rồi.
Tin này đã được truyền tai từ mấy hôm nay. Nghe Hải nói, cả nhóm vội vàng dọn dẹp rồi kéo nhau ra ngồi trước cửa đội để nhận diện người quen và ngắm “người đẹp”. Nữ trại viên mới đang lót tót nối gót nhau vào hội trường để qua thủ tục khám xét.
Ðệ nhanh nhẩu trong lúc quan sát đoàn “nữ binh mùa thu”:
- Có mấy “em” coi “mát” ghê hớ!
Nó quở Ðệ:
- Chú mày vào đây mà còn “dê” dữ há.
Ðệ vừa cười vừa nói:
- Giỡn chơi chút mà huynh.
Sau khi khám xét xong, đoàn “nữ binh” lững thững theo đội trưởng vào “doanh trại”, nhường hội trường lại cho đoàn “tân binh”. Nhìn đoàn “tân binh” ngơ ngác đi qua cổng trại, nó thốt lên:
- Thua luôn rồi!
- Ai thua? Long hỏi
Nó chỉ cho Long thấy Sơn và Tuyến đang bước vào trại.
- Anh Sơn với Tuyến kìa.
Khanh xen vào:
- Ði đâu rồi cũng đến “chóc bồn bồn” (tiếng lóng để gọi cho địa danh của trại cải tạo).
Trại viên mới còn đang ở hội trường để khám xét thì bỗng nhiên có tiếng súng nổ. Kiểng báo động khua inh ỏi, toàn trại được tập họp để kiểm tra quân số. Chắc là có người muốn đào thoát nhưng ở nơi đèo heo hút gió này dễ gì mà trốn được. Quả nhiên, sau đó vài giờ công an áp giải một người vào khu kỷ luật. Nó đã nghe mấy vụ âm mưu trốn trại ly kỳ nhưng chưa có ai thành công. Cuộc đời như một đại dương, thỉnh thoảng cũng phải có phong ba cho khác lạ, chứ nếu êm đềm, phẳng lặng mãi thì đời đâu có chuyện gì để nói…
Vài tháng sau, Sơn và Tuyến chuyển qua đội hai và nhập chung vào nhóm. Anh em gần nhau vẫn tốt hơn, có gì còn an ủi và giúp nhau được. Thời gian trôi qua chậm chập và buồn tẻ. Trại viên chỉ mong những ngày lễ lớn đến để được “khoan hồng”. Thông thường thì trước khi được tha về, trại viên được chuyển đi công tác xa (một hình thức đi làm thuê ở huyện, xã và dĩ nhiên là tiền công thuộc vào quỹ của trại), vì thế nên gần đến ngày tha về đa số trại viên biết trước mình có tên trong danh sách “xổ số”. Ðôi khi cũng có vài vụ tha đột xuất!(?). Mỗi đợt tha về, nó lại thấy buồn vì bao nhiêu hy vọng mà chị nó mang đến trong những lần thăm nuôi, cứ tan dần như bọt sóng. Nó tự an ủi cho chính mình rằng ít ra nó cũng không phải khổ cực như nhiều người ở những trại tù ngoài Bắc. Nơi của những màng lưới hận thù được bủa giăng rất tinh xảo, nơi con người nhìn nhau bằng ánh mắt oán thù, cư xử với nhau như loài thú, nơi con người gánh chịu oan khiên của những ý thức hệ ngoại lại và của lý tưởng hung tàn đã được mỹ từ hóa là giải phóng quê hương, là bảo vệ hòa bình (quê hương được giải phóng bằng khủng bố, hòa bình được bảo vệ bằng đạn bom)(!). Nghĩ mà thương cho cái đất nước bốn ngàn năm văn hiến. Ngót một nửa trong mấy ngàn năm đó là con rồng, cháu tiên phải gánh chịu đau thương và hận thù vì dã tâm của loài người. Trong mấy ngàn năm đó, có biết bao cảnh phân ly, lầm than khốn khổ vì nồi da xáo thịt và có không biết bao nhêu cảnh mẹ khóc con, vợ khóc chồng, con khóc cha. Phải chăng vận nước như đã được báo trước kể từ khi Lạc-Long và Âu-Cơ chia nhau đem năm-mươi con lên non và năm-mươi con xuống biển. Cuộc ly tán khởi đầu từ đó, để rồi huynh đệ tương tàn(?). Nó chợt hiểu ra vì sao dân nó lại bỏ nước ra đi, chẳng phải hoàn toàn vì đất nước nó nghèo hay đói khổ mà vì đất nước nó có quá nhiều hận thù, cái hận thù được trao truyền từ thế hệ trước qua thế hệ sau, cái hận thù đã mọc rễ và ăn sâu vào sự nhận thức. Muốn bứng cho sạch cái rễ đó không phải là chuyện đơn giản. Trên mảnh đất khô cằn đầy độc tố, muốn cho cây trổ hoa và ra trái ngọt ngào không phải dễ, không phải chỉ trong một sớm một chiều mà tư tưởng con người thay đổi ngay được…
- “Sư-huynh”, nước sôi chưa? Sắp giao thừa rồi. Nấu từ năm này qua năm khác không tốt đâu nha.
Nó giật mình. Nước đã sôi từ lúc nào, nếu Ðệ không gọi thì nó cũng không hay.
- Vào ngay. Vào ngay. Chú mày chỉ tin dị đoan nhảm nhí.
Ða số trại viên đã đi coi văn nghệ ở hội trường từ chiều. Vài người đang lẻ tẻ trở về đội. Cái tết xa nhà đầu tiên trong đời, nó cảm thấy nhớ nhà khôn tả. Nhóm nó quây quần ngồi “chặt cốt” và tán gẫu. Nhờ ở nhà đi thăm nuôi nên cũng có mứt ngọt, hạt dưa và bánh chưng để đón giao thừa. Mọi người kể cho nhau nghe về những cái tết vừa qua, những kỷ niệm của thời “phá phách”. Nó bùi ngùi nhớ lại mùa xuân xưa, những ngày vui rộn ràng bên nàng…
Ở trại, một năm có ba mùa: mùa lúa, mùa nước và mùa kênh. Nước đang rút dần, báo hiệu cho mùa kênh sắp đến. Như thường lệ, sau buổi thăm nuôi cả nhóm họp lại để “bồi dưỡng” và tán dóc.
Ðệ liến thoắng:
- Nè, bồi dưỡng gấp rút để lấy sức đi mấy huynh. Tuần sau là bắt đầu mùa “kênh” rồi. Mấy huynh-mới chưa quen, thế nào cũng “đẻ” dài dài cho coi…
- “ Ðẻ” là sao? Nó hỏi
Long giải thích:
- Là làm không xong chỉ tiêu.
- Năm ngoái, anh Long này “đẻ” lia chia.
Ðệ nhắc lại chuyện cũ rồi cười khúc khích.
Khanh lên tiếng:
- Nói vậy chứ đừng có lo, “đẻ” vài tuần rồi quen thôi. Mấy ngày đầu chưa quen, đào mau mệt lắm, nhớ đừng uống nước nhiều vì càng uống thì càng mệt hơn. Làm được tới đâu hay tới đó rồi thì phụ nhau mỗi người một chút cũng xong thôi.
- Khi nào “đẻ” thì kêu Hải-Mập tới “đỡ” giùm cho. Sơn-cận đùa
Ðệ xen vào, vừa nói vừa cười trêu ghẹo:
- Coi nó mập vậy chứ mà… yếu lắm.
- Ê. Ðừng có khinh rẻ chứ. Coi nè…
Hải vừa nói vừa gồng mình rồi vén áo đưa nguyên cái bụng mỡ ra và vỗ bình bịch làm cả bọn cười vang…
Ðúng như Ðệ nói, mấy ngày đầu nó chới với. Mười hai thước khối đất, nó chỉ đào được hơn phân nửa, trong lúc nhiều người đã làm xong chỉ tiêu. Ðến giờ về, khi mặt trời gần lặn mà nó vẫn chưa làm xong. Một cục đất lúc này nặng khối đá ngàn cân, nó bốc từ dưới kênh để liệng lên mà cũng không muốn nổi. Tay chân nó rã rời như muốn rơi khỏi đôi vai. Mấy tuần đầu, một tầm kênh đối với nó là một cực hình. Về sau, nó quen dần nên không còn thấy nhức mỏi như lúc đầu. Cuộc sống lao cải tuy khổ cực nhưng nó biết rằng có nhiều người ở các trại khác còn khổ hơn nhiều. Họ chỉ lặng câm mà chịu đựng, nhẫn nhục mà chấp nhận số kiếp vì dẫu có kêu trời thì trời cao cũng chẳng nghe thấu. Ðể sinh tồn, họ phải đấu tranh với bản thân từng giây từng phút. Chính trong khổ cực và đắng cay mà họ thấy được con người thật của nhau, thấy được giá trị của những thứ tầm thường mà trước kia họ chưa bao giờ nhận ra.
Ðã một năm từ ngày chuyển đi lao động, nó không viết thư về thăm nàng dù rằng mỗi tháng trại viên được viết một lá cho gia đình.
Nó không muốn người khác đọc những lời yêu đương chỉ dành riêng cho nàng vì thư từ bị cán bộ kiểm duyệt khi nhận hay khi gởi về. Nó biết rằng nàng rất mong nhưng cũng đành cất thương yêu vào lòng để trao nhau trong ngày hạnh ngộ…
Tất cả trại viên tập họp tại hội trường để chờ “xổ số”. Nó hy vọng mình có tên trong danh sách “trúng thưởng” vì tháng trước nó được đi lao động xa cùng với ông anh rể. Mở đầu cho buổi “xổ số”, trưởng trại đọc một bài diễn văn để nhắn nhủ các trại viên “trúng thưởng” và lên lớp các trại viên chưa tích cự trong học tập cải tạo. Tiếp theo là phần phát biểu cảm tưởng (tốt) của trại viên tiêu biểu về chính sách cải tạo lao động và khoan hồng của Nhà nước. Sau là phần đọc tên các trại viên được tha về. Nó nôn nao chờ đến phiên mình vì anh rể nó đã được gọi tên nhưng thất vọng khi người cuối cùng vẫn không phải là mình. Nó trở về đội mà lòng buồn thiu. Tuyến cũng mang cùng tâm trạng như nó. Hai anh em chẳng biết nói gì với nhau, chỉ nhìn nhau mà thương xót cho nhau…
Ngày về rồi cũng đến. Nó được tha về cùng với Tuyến và Khanh. Long đi công tác xa cũng được về cùng ngày (phải tốn tiền chạy chọt, nếu không chắc phải ở đủ ba năm hoặc có thể lâu hơn, có trời mà biết!). Trở về thành phố, nó thấy ngỡ ngàng với nếp sinh hoạt của người thành thị. Mỗi khi muốn băng qua đường, nó lại lúng túng vì xe cộ qua lại quá nhanh đối với nó. Ngay cả khi ngồi lại trên chiếc xe đạp, nó cũng cảm thấy mất thăng bằng. Ðạp xe ngang qua chung cư, nó ngước lên nhìn dãy hành lang và căn phòng nàng ở, bao nhiêu kỷ niệm êm đềm như còn đó. Nó nhủ thầm sẽ lên hỏi thăm tin túc về nàng nhưng lại nghĩ rằng vài hôm nữa trở về ÐALAT, nó sẽ gặp nàng nên lại thôi. Trên đường về nhà, nó ghé thăm em của người bạn, Thu (nó quen trước khi biết nàng). Nó nghĩ về Thu như một người em. Có đôi lần, nó đưa Thu đi chơi bằng xe đạp, Thu cũng ngồi trên cái đà ngang của xe nhưng chưa lần nào nó có cái cảm giác rạo rực, lâng lâng như những lần đi với nàng. Ở nàng là tình yêu, còn ở Thu chỉ là tình thân.
Dựng chiếc xe đạp vào tường rồi khóa lại cẩn thận, nó gõ cửa…
- Ai đó?
Giọng cô gái vọng ra. Nó đoán là Thu nên không trả lời mà tiếp tục gõ lên cánh cửa.
- Chờ một chút… Giọng cô gái có vẻ hơi bực mình
Nó chuẩn bị sẵn nụ cười trên môi.
- Ủa! Anh Thanh… Anh mới về hả?
Nó chưa kịp trả lời thì Hà (em của Thu) đã nói tiếp:
- Nhìn đầu tóc anh là biết ngay. Chị Thu đi vắng rồi, chắc cũng sắp về. Anh vào nhà chơi.
- Sao? Có gì lạ không? Nó hỏi
- Có chứ… nhưng từ từ. Anh uống nước gì không?
- Anh không khát, cảm ơn Hà.
Hà xoe mắt tròn nhìn nó.
- Trông anh lạ quá!
- Lạ làm sao?
- Người ta ở tù về, ai cũng ốm yếu hơn xưa. Vậy mà, anh lại có vẻ khỏe mạnh hơn lúc trước!
- Có lẽ tại lao động, ra nắng nhiều. Với lại nhờ ở nhà đi thăm nuôi đều đặn, chứ không…
Ðang nói chuyện với Hà thì Thu về. Hà nhìn ra cửa, hỏi:
- Chị Thu. Ðoán xem ai đến thăm chị nè?
Nó quay lại, mỉm cười. Thu mỉm cười lại với nó rồi bước vào nhà, bình thản kéo ghế và ngồi xuống.
- Anh mới về? Thu hỏi
- Mới về hôm qua.
Thu không thấy ly nước nào trên bàn nên nói với Hà:
- Sao mày không rót nước cho anh Thanh uống?
Hà phân trần:
- Tại ảnh nói không khát.
- Tụi mình ra đầu ngõ ăn chè. Nó đề nghị
- Ừ, thì đi. Anh mang xe vào nhà đi. Thu nói
Nó dắt xe vào, thấy Hà còn ngồi mơ màng nên hỏi:
- Sao? Ði chứ?
- Thôi, em không hảo ngọt lắm. Anh với chị Thu đi đi…
Quán nước nằm gần con đường chính, chỉ có vài cái bàn và mười mấy cái ghế đẩu thấp lè tè đặt dọc theo vỉa hè, xe cộ qua lại thổi bụi và khói mịt mù vậy mà vẫn đông khách. Kéo ghế ngồi, Thu không hỏi nó thích ăn loại chè nào mà gọi ngay hai ly đậu đỏ bánh lọt. Thu hỏi nó về đời sống trong tù và ở trại. Nó chỉ trả lời qua loa cho xong.
- Ở nhà có gì thay đổi không? Nó hỏi
- Mọi thứ vẫn vậy tuy đời sống có khó khăn hơn một chút.
- Từ lúc anh đi, Thu có thường lại chơi với Châu không?
Thu hơi bối rối, trả lời:
- Nói ra anh đừng giận nhe…
Nó khẽ gật đầu và đợi chờ Thu kể tiếp.
- Em chỉ đến có hai lần nhưng đều không gặp. Nghe nói, Châu về lại ÐALAT lâu rồi.
Nó thông cảm với Thu vì biết Thu và nàng không hợp nhau lắm, nếu không muốn nói là khác biệt nhau. Thu thì xông xáo, bạo dạn và thực tế. Nàng thì nhu mì, yếu đuối và lãng mạn.
Nó nói lảng qua chuyện khác:
- Lâu lắm rồi, anh mới được ăn một ly chè ngon như vậy.
- Anh ăn thêm đi. Hôm nay, em “bao”.
- Cho anh đổi ly chè lấy điếu thuốc thơm nhe?
- Anh hút thuốc gì?
- Ba số năm.
Thu gọi cô bán hàng:
- Chị ơi. Cho hai điếu “ba số năm”.
- Mua làm gì hai điếu lận? Anh hút không hết đâu.
Thu cười:
- Ai cho anh hút cả hai điếu mà ham. Một điếu cho anh hút bây giờ còn một điếu đem về.
Nó hiểu rằng Thu thương nó nhiều hơn tình thân trong thực tế. Có đôi lần, Thu lên ÐALAT thăm nó như để trắc nghiệm tình cảm của nhau nhưng lúc nào nó cũng giữ khoảng cách. Cái khoảng cách tuy ngắn ngủi, chỉ cần một vòng tay ôm là đủ để thâu hẹp lại, vậy mà nó cứ như một tượng đá. Với nó, tình yêu là một bức tranh mà người ta phải vẽ bằng tất cả tâm hồn và nguồn cảm hứng. Không có cảm hứng thì dù có đặt hết tâm hồn vào đó, nó cũng không thể nào trở thành một tuyệt tác được. Ngược lại, dù có cảm hứng nhưng nếu không vẽ bằng tất cả tâm hồn thì bức họa có đẹp chăng, cũng chỉ có giá trị nhất thời mà không vượt được thời gian. Nó chỉ đáp ứng được thị hiếu và trở thành một thứ thời trang nghệ thuật đối với người thưởng thức lẫn kẻ sáng tạo trong khoảng thời gian nào đó.
Thu tựa cằm vào lòng hai bàn tay rồi hỏi nó:
- Anh định về lại ÐALAT hay tính chuyện đi nữa?
- Có lẽ, vài hôm nữa anh về lại ÐALAT. Bây giờ, anh như chim mỏi cánh. Ở ÐALAT có một ngọn hải đăng yên bình cho anh ngơi nghỉ…
Thu nhíu mày, chất vấn:
- ÐALAT mà có hải đăng(!)? Anh chỉ…
Nhưng chợt hiểu ra nên Thu nói tiếp:
- Ơ… Em biết rồi. Anh lúc nào cũng bóng gió.
- Thu thấy anh ở tù về, nhìn có ngố ngáo lắm không?
Thu nhìn nó chăm chăm như đang say mê nhìn ngắm một tác phẩm nghệ thuật rồi thành thật trả lời:
- Trông anh có vẻ khỏe mạnh hơn nhưng em vẫn thích anh với mái tóc dài, trông như một nghệ sĩ.
Nó chợt mỉm cười bâng khuâng khi nghe Thu nói như thế.
- Anh cười gì vậy? Thu hỏi
Nó tủm tỉm trả lời:
- Chẳng có gì…
Thu đánh nhẹ lên bả vai nó, nhõng nhẽo:
- Phải có gì đó anh mới cười. Anh không nói, em giận cho coi…
- Giận thiệt không? Nó trêu
Thu giả vờ giận:
- Không biết.
- Nói vậy chứ, anh cười vì Thu bảo rằng anh để tóc dài trông như nghệ sĩ. Anh mà là nghệ sĩ thì cả nước ai cũng là nghệ sĩ.
Thu phụng phịu:
- Ừ, phải. Anh nói sao cũng được. Anh có bao giờ đồng ý với em về điều gì đâu chứ.
- Ðúng ra thì mỗi người là một nghệ sĩ và cuộc đời họ chính là tác phẩm của họ. Nghệ thuật thì không thể phê bình bằng con mắt chủ quan bởi vì dưới cái nhìn của người này, nó có thể đẹp nhưng dưới đôi mắt của người khác thì nó lại khác. Ở thời này, nó có thể là một thời trang được ưa chuộng hay là cái “mốt” được nhiều người đua theo nhưng ở thời điểm khác thì nó lại không còn giá trị hay trái “mốt”. Thu đồng ý không?
Thu còn suy nghĩ chưa kịp trả lời thì nó được thể lên giọng triết lý:
- Vì thế, mình đừng bao giờ khen che ai cả. Chẳng có gì là thực sự đẹp hay xấu, hoặc tốt hay không tốt. Ðối với người thợ săn, khi bắn được con mồi thì đó là sự vui thú của họ nhưng đối với người bảo vệ thú rừng thì đó là một tội ác. Với vài người, thịt chó là món khoái khẩu nhưng với người khác thì việc giết chó để ăn thịt là điều dã man. Ðừng bao giờ phê bình về bất cứ điều gì mà hãy nhìn sự việc một cách vô tư…
Thu ngắt lời:
- Nói như anh, vậy thì cứ nhìn người ta làm điều xấu mà mặc kệ, hay nói cách khác là khuyến khích họ cứ làm điều xấu.
- Anh đâu có nói là khuyến khích người ta làm điều xấu. Anh chỉ bảo rằng đừng phê bình vì khi phê bình điều gì, mình thường lấy cái kiến thức của mình để đánh giá sự việc. Lý trí con người thì hữu hạn do đó sự hiểu biết của mình chỉ là tương đối. Cho nên sự phê bình đó dù có đúng chăng nữa thì nó cũng chỉ tương đối thôi, hay nói cách khác là nó vẫn có chỗ sai sót. Thôi, anh không triết lý nữa đâu. Anh muốn đi thăm Loan, Thu có bận việc gì không?
- Em còn ít việc chưa làm xong, phải đem mấy cái áo đi vắt sổ giùm mẹ, rồi còn phải giặt đồ nữa.
- Anh đi một mình vậy. Mình về?
Thu gọi cô hàng, trả tiền rồi nhìn nó:
- Mình đi anh.
Con hẻm vào nhà Thu vắng người vì không phải là đường chính. Thỉnh thoảng mới có một cơn gió nên chẳng đủ để xua đi cái oi bức của đêm hè.
- Từ lúc anh đi, Thu có lên ÐALAT lần nào không?
- Từ ngày mẹ anh Chính dọn về đây, rồi anh ra đi, em không lên ÐALAT nữa vì không có chỗ ở. Ở khách sạn vừa ngại vừa tốn tiền, ở nhờ người quen thì bất tiện với lại sợ phiền.
- Bây giờ, anh về thì lên chơi được rồi. Lại nhà, anh cho ở trọ.
Thu khẽ nhún vai rồi nói:
- Thôi, em chẳng dám.
- Tại sao chẳng dám?
- Sợ… “người ta”.
- “Người ta” hiền lắm, Thu biết tính Châu mà. À! Còn Thu với anh Hoàng? Dạo này ra sao?
Nghe hỏi về chuyện tình cảm của mình, Thu có vẻ tư lự.
- Em cũng không hiểu được anh Hoàng và ngay cả chính mình. Không biết rồi đến đâu?
- Nó đã biết trước, sớm muộn gì Hoàng với Thu cũng sẽ chia tay bởi vì Hoàng như chú bướm đa tình thích hương thơm mới lạ chứ chưa nghĩ đến chuyện trăm năm, làm quen ai cũng chỉ để tạm thời lấp đi cái khoảng trống buồn tẻ trong cuộc sống. Hơn nữa, Thu dường như cũng chưa xác định được tình cảm của chính mình. Một nhóm có mấy người mà bấy nhiêu cuộc tình tay ba, nghĩ cũng oái oăm. Chưa có cuộc tình nào trọn vẹn, kể cả chuyện của nó với nàng. Nó tự hỏi, không biết rồi sẽ kết thúc ra sao? Tình yêu thật kỳ lạ, càng đuổi bắt thì nó càng chạy xa như cái bóng của chính mình. Chẳng trách thi nhân phải than thở: “Làm sao cắt nghĩa được tình yêu…” hay “Tình chỉ đẹp khi còn dang dở…” hoặc đau khổ hơn “Nếu biết rằng tôi đã có chồng. Trời ơi! Người ấy có buồn không?”
- Anh Hoàng có xuống thăm Thu không?
- Không có anh nên anh Hoàng cũng ngại đến nhà em một mình.
Thu dắt chiếc xe đạp ra cửa cho nó và nói thêm:
- Nếu anh còn ở dưới này, rảnh thì lại thăm em.
- Ừ. Em chào mẹ giúp anh. Cho anh gởi lời thăm mọi người. Thôi, anh về nhé…
Sài-Gòn lúc nào cũng nhộn nhịp xe qua lại như thoi đưa, tuy không nhiều xe-gắn-máy như những năm trước vì xăng dầu mỗi ngày mỗi khan hiếm và cuộc sống càng ngày càng khó khăn hơn. Thành phố bây giờ tràn ngập xe đạp như trên Trung-cộng. Về hình thức, có thể nói Cộng sản đã thành công trong việc san bằng giai cấp giữa giàu và nghèo, bởi vì hầu như ai cũng nghèo cả. Những người có ít của cải thì cũng giấu đi để tránh những con mắt hay dòm ngó của công an hoặc tìm cách gởi ra ngoại quốc cho người thân và sau đó tìm đường vượt biên.
Dắt xe vô đường hẻm dẫn đến nhà Loan, nó nghe có tiếng gọi tên mình nên dừng xe lại.
- Ô! Loan. Tưởng ai chứ. Sao Loan nhận ra Thanh, hay quá vậy?
Loan nhìn đầu tóc ngắn ngủn của nó và nói:
- Tuần trước, Loan ghé chị Luận chơi. Nghe chỉ nói Thanh sắp về. Loan ngồi chơi trong nhà người bạn, nhìn ra thấy ai giông giống Thanh, với lại thấy tóc ngắn nên Loan đoán là Thanh rồi gọi đại. Thanh về hôm nào?
- Mới về hôm qua.
- Vô nhà Loan uống nước. Ai lại đứng ngay giữa đường thế này.
Nó dựng chiếc xe đạp vào tường, định khóa lại thì Loan nói:
- Thanh đem vào nhà đi, để ngoài này không bảo đảm đâu.
Nó nhìn quanh căn phòng được ngăn đôi bằng tấm vải treo lơ lửng hai bên vách. Nửa bên ngoài đặt cái bàn và vài cái ghế làm nơi tiếp khách, nửa bên trong đặt cái phản làm chỗ nghỉ ngơi.
Nó ngồi xuống ghế rồi nói:
- Mọi thứ vẫn như lần cuối Thanh lại chơi, chẳng thay đổi gì cả. Chị Hồi gởi thư về thường không hả Loan?
- Thỉnh thoảng mới có một lá. Từ lúc chỉ đi, Loan ở một mình nên cũng buồn lắm. Lúc trước có chị có em, chuyện gì Loan cũng tâm sự với chỉ. Ðể Loan lấy hình chỉ gởi về cho Thanh coi.
Loan đưa cho nó xấp hình, nó xem qua loa.
- Thanh ngồi chơi. Loan chạy đi mua đá…
- Thôi. Thanh uống nước lọc được rồi. Giấy tờ của Loan thì sao?
- Loan cũng không biết. Cứ nay thế này, mai thế nọ. Chờ mãi rồi cũng chán nên Loan cứ để mặc, tới đâu hay tới đó.
- Loan có thư từ cho Châu thường không?
Loan thoáng bối rối khi nghe nó nhắc về nàng.
- Lúc trước, hai đứa viết cho nhau thường xuyên nhưng mấy tháng rồi, không nhận được thư Châu, Loan cũng lười nên không viết thư thăm hỏi.
- Không biết dạo này Châu ra sao?
- Hình như Châu đã mổ để cắt cục bướu rồi. Châu không viết thư kể cho Thanh điều gì sao?
- Có lẽ tại Thanh không viết thư về nên Châu giận.
- Bao giờ Thanh về lại ÐALAT?
Nó trao mấy tấm hình lại cho Loan.
- Thanh định ngày mai. Bé Hạnh lớn ghê, chắc chẳng còn nhớ chú Thanh đâu. Khi nào Loan viết thư thăm chị Hồi, cho Thanh gởi lời thăm nhé.
Loan gật đầu. Ngồi yên lặng một lúc, Loan nói:
- Thanh học tập về, coi bộ khỏe hơn trước!
- Cũng nhờ ở nhà tiếp tế đều đặn, chứ không… chắc Thanh đã thành “người thiên cổ”.
Loan hỏi thêm về đời sống trong trại cải tạo. Nó kể đại khái cho xong về “cơn ác mộng” đã qua. Tình bạn giữa nó và Loan vẫn như ngày nào. Cái khoảng cách giữa tình bạn và tình yêu như sợi tơ trời mỏng manh, tưởng như có thể tan biến dễ dàng như thi sĩ đã viết: “không gian như có giây tơ, bước đi sẽ đứt, động hờ sẽ tiêu”. Thế nhưng nó không muốn bước đi qua, cũng không dám động vào. Tình yêu là cảm xúc nhạy bén của tâm hồn mà người ta có thể cảm nhận được ngay trong lần đầu gặp gỡ. Trong tình yêu, người ta không cần thời gian để tìm hiểu đối tượng của mình có đáng yêu hay không. Người ta có thể phải suy tính trước khi lấy nhau, nhưng tình yêu khác với hôn nhân bởi vì trái tim không biết tính toán để lựa chọn. Khi yêu, người ta chỉ biết mình đang yêu, chứ khó mà biết được tình yêu đến từ bao giờ và bằng cách nào. Người ta chỉ có thể cảm nhận được rằng mình đang yêu, khi bất ngờ thấy đường khuya đẹp và trăng khuya quyến rũ, ngay cả cái tầm thường nhất cũng trở nên có ý nghĩa hơn. Một bông hoa dại, một cơn mưa phùn hay một bóng mát hàng cây,… có thể trở thành một huyền thoại. Khi bên nhau, tình nhân có cảm tưởng như thời gian ngắn lại và không gian hẹp lại. Khi thiếu vắng nhau thì ngẩn ngơ, luyến nhớ và một ngày tưởng dài như thiên thu, vạn kỷ,…
Bến xe là nơi ồn ào, náo nhiệt không thua gì phiên chợ cuối năm. Ở đó, người ta nghe được đầy đủ tất cả âm thanh ở từng cảm xúc: hỷ, nộ, ái, ố,… ở đủ mọi âm độ trầm bổng như: tiếng chào hỏi nhau lịch sự trong vui mừng, tiếng văng tục trong bực tức, tiếng khóc, tiếng cười, tiếng dọa nạt, tiếng nào nỉ van xin,… Ở đó, vở bi-hài-kịch của cuộc đời được trình diễn một cách trung thực nhất.
Vì nóng lòng muốn gặp lại nàng nên nó trở về ÐALAT một mình như dự tính. Nó lên xe, tìm chỗ ngồi. Hành lý của nó vỏn vẹn chỉ có mấy bài thơ ngốc nghếch viết trong tù cho riêng nàng và tời giấy tạm tha. Tuyến đưa nó ra bến xe và chờ xe rời khỏi bến rồi mới quay đi. Khi xe dừng lại trạm kiểm soát để trình giấy thì một gã công an lên xe kiểm tra.
Gã nhìn nó chăm chăm rồi hất đầu và nói:
- Cho xem giấy tờ thông hành.
Nó lấy tờ giấy tạm tha, đưa cho gã công an.
Gã đọc xong, đưa lại cho nó và nhắc nhở:
- Anh về phải trình ngay với công an địa phương. Anh còn bị quản chế một thời gian, nếu anh không chấp hành nghiêm chỉnh chính sách của Nhà nước thì sẽ bị bắt đi học tập lại, biết không?
Nó gật đầu rồi cười và lạnh lùng nói cảm ơn. Người đàn bà đứng tuổi ngồi cạnh nó, đợi gã công an xuống xe rồi mới hỏi han.
- Cậu học tập mới về hả?
Nó nhìn bà ta, lễ phép đáp:
- Dạ.
Người đàn bà khẽ lắc đầu rồi thở dài như vừa thương hại cho nó vừa ngao ngán cho chế độ. Xe chạy ra xa lộ, nó nhìn mơ màng những hàng cây cao-su ở hai bên đường và tưởng tượng đến cảnh gặp lại gia đình và nàng. Tuyến đường dài chưa được bốn trăm cây số mà có hơn mười trạm kiểm soát. Chỉ tại cái đầu ngổ ngáo nên ở trạm nào nó cũng bị hỏi giấy tờ. Khi xe đến chân đèo Prenn thì khí hậu trở nên mát dịu và càng lên cao thì cành lạnh. Nó nhìn xuống thung lũng dọc theo triền núi, lác đác vài căn nhà của người dân thiểu số chìm khuất trong sương khói của núi rừng cao nguyên, trông như một cảnh thần tiên nào đó. Khi xe lên gần hết đèo, nó nghe văng-vẳng tiếng rì rào của dòng thác Datanla từ dưới sườn núi vọng lại. Với nó, những ngọn thác dù có hùng vĩ cách mấy thì vẫn mang cái nét nữ tính nào đó, tựa như một sơn nữ đang uốn mình trong vũ khúc Taboo và núi rừng là chàng trai trầm lặng đang thưởng thức vũ khúc nghê thường. Lên hết đèo, người ta có thể thấy thấp thoáng cây thập-giá của ngôi giáo đường chính, trên đỉnh cây thập giá có tượng của một con gà mà nó không biết rõ nguồn gốc từ đâu. Mặt hồ Xuân-Hương từ từ hiện ra trong tầm mắt. ÐALAT, nơi chôn nhau cắt rốn của nó, nơi Lam Phương có lần đặt tên cho nhạc phẩm của mình là “Thành phố buồn”. Nó nghĩ rằng ÐALAT là thành phố mộng mơ thì đúng hơn, bởi vì nỗi buồn chỉ là tâm trạng của người trong cuộc. Nó chợt nghe lòng mình bùi ngùi khi nhìn lại chốn thân quen với những kỷ niệm êm đềm của một thời yêu đương như còn đó.
Một cảm xúc là-lạ đang len lén đi vào lòng nó, tựa như cảm xúc của chú bé lần đầu tiên đi học trong bài “tôi đi học” của Thanh Tịnh: “Hàng năm cứ vào cuối thu, khi trên trời có những đám mây bàng bạc. Mẹ tôi âu yếm nắm tay tôi, dắt đi trên con đường… Con đường này tôi đã đi lại nhiều lần nhưng hôm nay bỗng như xa lạ…”. Ðó là bài học vỡ lòng, khi trí óc non nớt của nó bắt đầu biết tiếp nhận kiến thức và tư tưởng ở học đường. Thành phố vẫn như ngày nào, vẫn trầm lặng và thơ mộng nhưng nó lại cảm thấy ngẩn ngơ như người khách lạ mới đến chốn này…
Bước vào nhà, nó thấy người anh cả đang ngồi xếp lá chuối để làm vật dụng gói giò.
- Anh Thảo… Nó khẽ gọi
Anh nó sửa lại gọng kính và ngước lên nhìn rồi gọi vọng lên lầu:
- Bà ơi… thằng Thanh, nó về này…
Nó cảm nhận được nỗi vui mừng trong ánh mắt và giọng nói của người anh. Trong nhà có năm anh em trai nhưng ít khi nói chuyện với nhau vì mỗi người có cuộc sống riêng và bản tính lại khác nhau. Nó được mọi người thương yêu dù chẳng phải là “út” trong nhà, tuy chẳng ai nói ra nhưng nó vẫn cảm nhận được bằng một giác quan tiềm ẩn. Tiếng guốc trên lầu vọng xuống nghe lọc cọc, một cách đều đều chậm chạp, từng tiếng một. Bà của nó vịn tay vào thành cầu thang, lần xuống từng bước.
- Thằng Thanh, nó về hả? Ðâu! Nó đâu?
Nó nhìn lên, khẽ gọi:
- Bà…
Nó chờ bà xuống gần hết cái cầu thang rồi mới ôm chầm lấy. Hai bà cháu ôm nhau trong mừng tủi. Bà nó nhỏ nhắn và gầy yếu trong vòng tay ôm của nó, vậy mà nó lại thấy mình nhỏ bé và yếu đuối hơn rồi bật khóc. Nhớ thương như một dòng nước cuồn cuộn chảy… Buổi tối, sau khi trò chuyện với mọi người trong nhà xong, nó vội vàng đi lại nhà nàng. Nó thấy hồi hộp hơn cả lần đầu tiên đến tìm nàng.
Ðứng trước cửa nhà nàng, nó phân vân tự hỏi lòng: Có nên gặp lại nàng lúc này không? Có phiền nàng không? Gia đình nàng có…? Và bao nhiêu câu hỏi khác trong đầu. Nó lưỡng lự vài phút rồi mới quyết định gõ cửa… Nó bối rối, chờ đợi… Tiếng chân người bước ra mỗi lúc một gần. Nó tiu nghỉu khi thấy Tâm (em gái của nàng) mở cửa.
Nó gượng cười và nói:
- Xin lỗi. Cho gặp Châu…
Nó chưa dứt lời thì Tâm vội vàng nói:
- Chỉ không có nhà.
Nó đứng ngẩn ngơ như không tin rằng Tâm nói thật.
Tâm nhìn nó rồi lúng túng nói tiếp:
- Chỉ đi Sài-Gòn để giải phẫu bướu cổ, chưa về.
- Xin lỗi, bao giờ Châu về?
- Có lẽ tuần tới.
- Ơ… Cảm ơn… Khi nào Châu về, làm ơn nhắn giùm là có Thanh đến thăm nhe.
Tâm gật đầu rồi khép cánh cửa lại. Nó thất vọng quay về và thầm trách mình rằng khi còn ở dưới Sài-Gòn đã không hỏi thăm về nàng…
Một tuần trôi qua, ngày nào nó cũng đến Thơ chơi và lảng vảng gần nhà nàng để ngóng tin. Nếu không bị quản chế thì nó đã xuống Sài-Gòn để gặp lại nàng. Không có nàng, nó mới thấy thành phố thật là buồn như câu hát: “… thành phố buồn, nằm nghe lá đổ. Chiều không em, hoang vắng phố phường…”.
Một hôm, nó vừa chẻ củi xong, và đang loay hoay đun nước để tắm thì Trí (bạn của anh nó) vào chơi.
Thấy nó đun nước tắm nên Trí hỏi:
- Chuẩn bị đi thăm “đào” há?
- Làm gì có “đào” mà thăm.
- Giấu làm gì chú-em. Anh thấy “chú” đi chơi với “cô nàng” mấy lần mà, không phải à?
- À! Anh nói về cô bạn của Thanh ở Sài-Gòn, thỉnh thoảng lên đây chơi đó hả?
- Không phải. Tao nói về cô con gái của ông Thận ở đường Duy-Tân kìa. Lúc nãy, tao gặp “cô nàng” ngoài phố, hình như đi với người anh thì phải. Tao thấy cái cổ bị băng lại…
- Anh gặp lâu chưa? Nó mừng rỡ, hỏi
- Mới mấy phút, trên đường đi lại đây, chứ lâu la gì.
Như còn chưa chắc nên nó hỏi thêm:
- Làm sao anh biết là con ông Thận?
- Thì cùng xóm với nhau mà. Với lại, hồi đám cưới tao, ông Thận đại diện cho nhà gái. Ổng coi vậy chứ mà “tây” lắm nha, nói chuyện thì rất từ tốn mà văn chương lắm. Hẹn mười giờ rước dâu là đúng mười giờ ổng có mặt, không trễ một phút. Nghe nói, lúc trước ổng làm ở tòa tỉnh mà, phải không?
Nó dụi mắt vì khói rồi trả lời:
- Thanh cũng chỉ nghe vậy thôi.
Tuy chỉ quen biết với nàng, nó cũng thấy mát lòng khi nghe Trí nói về ba của nàng.
- À! Anh Quang có nhà không? Trí hỏi
- Hình như ở trên lầu hay sao đó. Anh lên thử coi.
Trí thọc tay vào túi quần, miệng hút sáo một khúc nhạc rồi thong thả đi lên lầu. Nó hí hửng xách ấm nước đi tắm và trong lòng vui như mở hội. Tắm xong, nó vội vã đến nhà nàng. Nó gõ cửa và chờ đợi. Lần này, người ra mở cửa vẫn là Tâm. Nó nói như biết chắc rằng nàng đang ở trong nhà.
- Xin lỗi. Cho gặp Châu chút xíu.
- Chỉ vừa về nên còn mệt lắm, đang nằm ngủ. Ba dặn là để chỉ nghỉ ngơi đừng có quấy rầy. Ngày mai, anh đến được không?
Biết là có nài nỉ cũng hoài công nên nó phải cáo từ.
- Khi nào Châu thức dậy, làm ơn nói lại giùm là có Thanh đến thăm.
Nhắn nhủ xong, nó cảm ơn Tâm rồi quay về. Ði được một quãng, nó cảm thấy trống vắng nên vòng lại nhà Thơ.
Gặp lại nó, Thơ hỏi ngay vào trọng tâm:
- Có tin gì của Châu chưa?
Nó gật đầu và nói:
- Rảnh không? Ði làm vài ly chơi.
- Ngồi ở đâu?
- Xuống Thủy-Tạ nhe?
- Chờ tao vào mặc thêm cái áo.
Trời vừa nhá nhem mà đã lạnh buốt, không phải vì gió mà vì hơi lạnh trong chân không. Mặt hồ như có những màng sương lơ lửng, xếp thành từng lớp nhưng thật ra chỉ là hơi lạnh bốc lên từ mặt nước.
Thơ thở ra khói, hỏi:
- Hút “bốc-lăn-xe” không?
- Thuốc Thái-Lan hả?
Thơ cười thú vị.
- Không phải. Thuốc rê.
- Thuốc rê thì nói là thuốc rê đi, còn bóng bảy.
Thơ giải thích:
- Chứ không phải sao? Trước hết phải “bốc” thuốc cho vào giấy rồi vừa “lăn” vừa “xe” để vấn thuốc cho chặt.
Nói xong, Thơ truyền giấy vấn và thuốc cho nó.
Nó hí hoáy mãi mới vấn xong điếu thuốc rồi nói:
- Phải gọi là thuốc “bốc-lăn-le” mới đúng.
Thơ cười vang. Tiếng cười như lưỡi dao, cắt đứt ngọt ngào cái không gian trầm lặng của buổi tối ÐALAT.
- Mày vẫn “tếu” như xưa… A, mày có tin gì của nàng?
- Châu mới về, vừa mổ xong.
Thơ đưa điếu thuốc đang hút cho nó để mồi lửa, hỏi thêm:
- Mày gặp rồi hả?
- Chưa. Tao đến nhà nhưng Tâm nói là Châu cần nghỉ ngơi nên tao đành chịu. Dạo tao ở tù, mày thường dẫn Châu đi chơi chứ?
Mắt nhìn xa xăm, Thơ trả lời:
- Chỉ vài lần đi nghe nhạc. Châu thường nhắc về mày và những kỷ niệm xưa. Châu thương mày thật đó, Thanh à. Tao hiểu rằng dù mày có chết thì với Châu, tao cũng chỉ là một người bạn hay người anh tinh thần mà thôi. Nhưng thú thật với mày, tao vẫn yêu Châu. Tao không tốt số như mày…
Thơ ngừng lại, hút một hơi thuốc rồi nói tiếp:
- Mày đang có cái hạnh phúc mà người khác ao ước, ráng mà giữ. Ðừng để vuột khỏi tầm tay vì “phước bất trùng lai”.
Nó gật gù.
- Tao cũng nghĩ như vậy, cảm ơn mày. Mày thường ghé Sơn, Phú chơi không?
- Thỉnh thoảng.
Nó cầm ly rượu, uống cạn một hơi.
- Cả nhóm vẫn khỏe chứ?
Thơ mỉm cười.
- Vẫn sáng “xỉn”, chiều say.
- Còn Hoàng?
- Nghe nói nó sắp cưới-hỏi gì đó.
Nó ngửa mặt, phả khói thuốc lên trời và hờ hững hỏi:
- Lấy ai, mày biết không?
- “Cô bé” nào ở gần nhà, nghe nói là giáo viên.
Thơ trả lời xong, nhìn nó hỏi:
- Còn mày thì sao? Tính đi lại hay thôi?
Nó vấn thêm điếu thuốc, vừa vấn vừa trả lời:
- Tao cũng không biết nữa.
Thơ uống cạn ly rượu rồi xoay xoay cái ly giữa lòng bàn tay và nói:
- Nếu mày tính đi nữa thì tao khuyên mày đừng nên gặp lại Châu làm gì. Chỉ mang thêm khổ đến cho nhau. Tao nói thật với cái nhìn khách quan, chứ không phải vì tao ghen. Mày biết tính tao mà.
Nó choàng tay qua vai Thơ.
- Tao hiểu rồi. Mày không cần giải thích. Người ta nói, yêu là mong muốn người mình yêu được hạnh phúc dù là với kẻ khác. Dù biết khổ, người ta vẫn cứ yêu, yêu đơn phương trong tuyệt vọng…
Thơ cười gằn, ngắt lời:
- Mày đang mỉa mai hay thương hại cho tao?
Nó nhìn Thơ rồi từ tốn nói:
- Tao không có ý mỉa mai hay thương hại mày. Tao không thích thương hại người khác, vì như vậy là không giúp người ta vươn lên để đối diện với thực tế. Trong tình yêu, đôi lúc vì lòng thương hại mà người ta không có hạnh phúc. Có thể, vì không đủ can đảm hay không đành lòng làm người khác khổ nên người ta ban phát tình yêu một cách miễn cưỡng để rồi tự làm khổ chính mình. Tao không chấp nhận điều đó, không phải vì ích kỷ. Trong tình yêu, một người khổ vẫn hơn là nếu kéo thêm người khác vào cuộc, để rồi cả hai cùng đau khổ. Thà rằng yêu người mình không lấy được, còn hơn lấy người mình không yêu vì lòng thương hại. Nếu phải hy sinh tình cảm của mình để người khác được hạnh phúc, thì dù có khổ đau, tao vẫn nhận lấy mà cảm thấy an lòng vì không bị giằn vặt. Ai cũng có cái kim chỉ nam quý báu, đó là lương tâm. Hành động theo lương tâm, người ta sẽ không bao giờ phải hối hận.
Thơ gật gù và “khen”:
- Mày lý luận hay lắm, đáng lẽ mày phải là một triết gia mới phải.
- Sự hiểu biết của tao có là bao, chỉ là những góp nhặt của cuộc sống, làm sao dám “dạy đời”. Thôi, cạn ly đi.
Thơ cầm ly rượu, nhìn nó và “buông” một câu tiếng Pháp (tạm dịch):
- Cho tình bận của tụi mình.
Nó và Thơ cụng ly. Âm thanh của hai cái ly bằng thủy tinh chạm vào nhau nghe trong vắt như tiếng pha-lê vỡ…
Nàng bối rối nhìn nó như trong lần gặp đầu tiên. Ánh mắt của nàng vẫn buồn như thuở nào. Ngoài khung cửa, nó cũng đứng lặng yên, nhìn nàng mà không nói câu nào. Tiếng chân bước xuống thang lầu làm nàng hoàn hồn.
Nàng khẽ kéo cánh cửa ra rộng hơn và nhỏ nhẹ:
- Thanh vô đi…
Nó bước vào, vừa lúc má của nàng đi ra. Nó đoán rằng bà đi chợ vì thấy bà cầm nón lá và cái giỏ mây. Nó cúi đầu, lễ phép chào.
- Chào bác ạ.
Má nàng nhìn nó, hờ hững gật đầu chào lại. Trong ánh mắt và cử chỉ của bà như nói lên phần nào rằng bà chẳng thích nó cho mấy.
Nhìn nàng, bà hỏi:
- Má đi chợ, có cần mua gì không?
- Dạ không ạ. Nàng đáp
Ðợi má của nàng ra khỏi cửa, nó mới ngồi xuống ghế.
Nó mở lời:
- Châu xanh quá!
Nàng không quan tâm đến sự lo lắng của nó mà đi thẳng vào vấn đề muốn nói.
- Bây giờ, mình coi nhau như bạn thôi nhe…
Nó choáng váng như bất ngờ bị trúng gió nhưng cố ra vẻ điềm tĩnh.
- Châu giận Thanh hả?
Nàng không trả lời mà chỉ khẽ lắc đầu. Nó chăm chú nhìn nàng và biết rằng nàng không nói đùa. Ðôi mắt nàng long lanh nỗi buồn và tia nhìn yếu ớt như nắng chiều thu. Bao nhiêu điều muốn tâm sự với nàng, mà đêm qua nó trằn trọc ghi nhớ, bây giờ bỗng tan biến. Ðầu óc nó trống rỗng như một tòa nhà hoang phế. Nó cảm thấy sự hiện diện của mình trong nhà nàng như thừa thãi. Nó và nàng cùng ngồi trong yên lặng như để lắng nghe tiếng lòng của nhau.
Nó lên tiếng để xua đi cái trống vắng trong lòng mình:
- Châu không muốn thì thôi vậy… Thanh sẽ không đến quấy rầy Châu nữa đâu…
Nó ngập ngừng, chẳng biết nói gì hơn và định đi về.
- Không phải Châu không muốn, nhưng mà…
Nàng bỏ lửng câu nói rồi bật khóc, nghẹn ngào:
- Thanh không hiểu đâu… Thôi, Thanh về đi…
Nó nhìn nàng khócmà lòng đau xót. Nó muốn đến bên nàng để vỗ về và hỏi cho ra lẽ nhưng cảm thấy ngượng ngùng, dù đã nhiều lần tình tứ ôm nàng trong vòng tay. Lúc này, giữa nó và nàng như có một khoảng cách, tựa câu thơ nào đó: “Gần nhau trong gang tấc mà biển trời cách mặt…”. Nó ngồi bất động như một tượng đá. Không gian như đầy thán khí và đông đặc lại. Căn nhà nàng trở nên mênh mông và hoang vắng dị thường…
Nó đứng dậy, nói nhỏ như chỉ đủ cho mình nghe:
- Thôi, Thanh về.
Nàng ngước nhìn nó. Ánh mắt nàng như muốn nói lên điều gì. Ðôi môi nàng mấp máy, không ra lời. Bước ra khỏi cửa, nó còn nghe tiếng nấc nghẹn ngào…
Ngày… tháng… năm…
Châu ơi, đêm sắp tàn, anh đang gọi tên em như đã gọi bao nhiêu lần trong những ngày qua. Anh không chế ngự được nỗi nhớ. Hình ảnh em cứ ở trong anh như dòng máu luân lưu chảy vào tim, để nuôi dưỡng tình mình. Vẫn biết rằng yêu em, anh chỉ đem lại cho em muộn phiền, thế mà anh chẳng thể nào ngừng yêu em. Anh ích kỷ quá phải không? Có lẽ khi yêu, người ta trở nên ích kỷ và muốn được cho riêng mình. Anh chẳng thể nào dối với lòng mình rằng anh yêu em. Em đã để lại trong anh một dấu tích tuyệt vời của tình yêu, một tình yêu thơ dại, “EM YÊU DẤU”, hãy cho anh được gọi như thế một lần cuối rồi chúng mình sẽ mãi mãi như hai người xa lạ. Em sẽ đi con đường mình chọn. Còn anh, anh không biết mình sẽ sống ra sao khi thiếu vắng em, nhưng cách gì thì anh vẫn mãi yêu em. Nếu tình cờ gặp lại nhau ở góc phố nào đó, xin em hãy coi anh như người xa lạ, bởi vì anh chẳng thể nào làm được điều em đề nghị, làm sao anh có thể cư xử với em như một người bạn mà thôi, làm sao để mảnh kim khí có thể đừng bị hút vào thỏi nam châm khi gần nhau được, hả em! Em “ác” lắm, em biết không? Anh biết rằng, có một áp lực nào đó đang chi phối và cản trở tình mình, có thể vì gia đình em không thích anh hay vì người đời dị nghị, dèm pha. Mới ngày nào, em chỉ biết yêu anh mà không lo nghĩ gì, chẳng màng dù người đời có nói quanh co và chẳng phụ thuộc vào xích xiềng gia giáo, em đã vượt qua tất cả để sống thật với chính mình. Ngày đó, con người em đẹp hơn bất kỳ một tuyệt phẩm mỹ thuật nào, tâm hồn em thơ mộng hơn bất cứ một hồ sương hay sông trăng nào, em đẹp hơn cả thiên thần và bay cao hơn họ. Có không gian nào giam hãm được tình yêu, phải thế không em? Anh hiểu rằng em chẳng thể nào sống hồn nhiên như trước ngày mình gặp nhau rồi yêu nhau. Anh biết rằng xa nhau, em sẽ chẳng còn được cười đùa như thuở gần nhau, làm sao xa nhau mà em hạnh phúc được. Em không nói ra điều đó nhưng những giọt nước mắt nghẹn ngào mà em khóc hôm mình gặp lại đã nói với anh thế. Nụ hôn và nước mắt em ngày nào như vẫn còn mặn ấm môi anh. Hôm đó nhìn em khóc, anh chỉ muốn lại gần em và ôm em vào lòng như thuở nào nhưng anh lại không dám, còn gì xót xa hơn, phải thế không em? Xa nhau rồi, anh chỉ cầu mong em sống yên bình với kỷ niệm, những gì đã xa nhưng lại thật gần. Tất cả chỉ tại anh thôi, hãy cho anh tạ lỗi cùng em một lần cuối. Ở em, chẳng có gì để anh oán trách nên em đừng tự trách cứ chính mình. Bao giờ anh cũng nghĩ về em với tình cảm tốt đẹp. Cảm ơn em đã cùng anh đi qua quãng đời đẹp nhất và thơ mộng nhất. Có viết nhiều thì cũng chỉ có bấy nhiêu, những điều mà em đã biết. Phải, anh cũng chẳng thể nào dối lòng mình rằng: “ANH YÊU EM, CHÂU ƠI”. Có bức hình, anh vẽ đôi tình nhân đang nhìn nhau âu yếm, họ đang thầm thì với nhau những lời yêu thương bằng ngôn ngữ của tình yêu, qua ánh mắt. Bức hình tuy không sắc sảo nhưng dễ thương như tình mình. Anh đã vẽ bằng tất cả tâm hồn, qua những nét ngây ngô của một kẻ hay mộng mơ. Xin gởi tặng em để làm kỷ vật cho tình mình. Lá thư này, nếu được, em hãy cất nó sau bức hình để làm chứng tích cho tình anh và để tình cờ một lúc nào đó, nếu có đọc lại thì em biết rằng, thuở nào có một kẻ si tình đã yêu em tha thiết. Tình chỉ một thời nhưng yêu đến trọn đời. Xin may mắn và hạnh phúc đến với em.
Thanh
Nó đọc lại lá thư rồi lấy giấy báo bọc quanh bức hình và mang đi…
Một tuần trôi qua trong nhung nhớ, kể từ hôm đưa nàng bức hình và lá thư. Nó tự giam mình trong nhà “như con sâu làm tổ trong trái vải cô đơn”. Nhiều lần, nó đã đi đến nhà nàng nhưng nửa đường lại quay về, vì tự nhủ lòng rằng nó không có quyền làm nàng khổ thêm nữa. Bạn bè rủ đi chơi và nghe nhạc thì nó viện cớ đau ốm để nằm trong phòng ôm ấp mối thương đau. Lời hát từ những bài không tên của Vũ-Thành-An như những mũi thuốc đâm sâu vào thịt da, làm lòng nó đau nhói nhưng lại xoa dịu được phần nào nỗi nhớ. Nó mơ màng nhìn khói thuốc lá chập chờn trong căn phòng đóng kín cửa và thả hồn vào lời ca: “…một làn khói trắng, ru đời vào quên lãng, nâng sầu thành hơi ấm, thơ dịu tình đau… yêu nhau cho nhau nụ cười, thương nhau cho nhau một đời, mà đời đâu biết đợi, để tình nhân kết đôi… một mình đi mãi, trên đường dài không thấy(?), ai người quen tôi đây? Bao giờ đời sẽ vui?…”. Tiếng lè-xè ở cuối băng và tiếng bật khô khan của bộ phận tắt tự động, rồi tiếng gõ trên khung kính cửa sổ làm nó giật mình. Nó uể oải ngồi dậy rồi mở cửa mà không thắc mắc là ai ở ngoài gõ cửa.
- Ủa! Loan.
Loan cười chào.
- Thanh đang ngủ hả?
Nó đưa tay, xoa đầu.
- Nằm nhắm mắt để đó, chứ có ngủ-ngê gì đâu. Loan vào chơi.
Bước vào phòng, Loan phàn nàn:
- Thanh hút thuốc, sao không mở cửa sổ ra cho thoáng một chút? Giống như là có mây trong phòng vậy…
Nó cười vô tư lự.
- Cho có vẻ thơ mộng!
- Gớm! Thơ mộng cái nỗi gì. Hôi mùi khói thuốc lá quá trời.
Loan cau mày, nói tiếp:
- Loan mở cửa ra nhe?
- Ðể Thanh mở được rồi, mà lạnh lắm à nhe. Loan ngồi ghế chơi đi làm gì mà đứng hoài.
Nói xong, nó lịch thiệp kéo ghế cho Loan rồi hỏi:
- Loan lên lâu chưa?
- Mới chiều hôm qua.
- Ở khách sạn hả?
Loan gật đầu thay cho câu trả lời. Nó đẩy mạnh cánh cửa sổ ra ngoài. Gió và khí trời lùa vào phòng, lạnh nhưng dễ chịu. Nó đi lại giường, dọn dẹp qua loa.
Sao Loan không lại đây ở, có tiện hơn không? Và đỡ tốn tiền nữa. Bạn bè lâu năm rồi mà còn ngại gì.
- Nhưng mà… Loan lưỡng lự
- Nhưng mà cái gì chứ, mang đồ đạc lại đây để ở phòng Thanh, ngủ thì lên phòng chị Ngân, còn không thì ngủ ở phòng Thanh cũng được chứ có gì đâu.
- Thanh không sợ Châu ghen sao?
Nghe Loan nhắc đến nàng, nó thấy bối rối nhưng không muốn Loan biết chuyện nên bình thản trả lời:
- Bạn bè với nhau, chứ xa lạ gì đâu mà Châu ghen. Hơn nữa, Châu hiểu Thanh với Loan mà. Lát nữa, Loan mang đồ đạc lại nhe?
Loan ậm-ừ cho xong rồi đề nghị:
- Thanh thay quần áo đi rồi tụi mình xuống rủ Châu đi chơi.
Nó giả vờ, ra dáng mệt mỏi.
- Mấy hôm nay Thanh không được khỏe lắm, Loan đi một mình đi.
Có gì thì rủ Châu lên đây chơi, chứ Thanh mà ra đường là bệnh luôn à, nhất là trời đang lạnh…
Loan đoán biết là nó vờ-vịt.
- Thanh bệnh mà còn hút thuốc đến mờ mịt cả phòng. Thôi đi, hay là…
Biết mình lỡ lời nên Loan tiếp:
- … lại làm biếng chứ gì?
- Ừ. Thì sao cũng được mà.
- Thôi, được rồi. Loan đi một mình vậy. Gặp lại sau nha.
Nói xong, Loan mỉm cười rồi mở cửa phòng, đi ra…
Nghe tiếng gõ cửa, nó đoán rằng Loan đem đồ đạc đến.
- Cửa không khóa, vào đi.
Loan từ từ đẩy cánh cửa ra rồi ló đầu vào và hỏi:
- Ðố Thanh biết, Loan mang ai đến?
Nó thừa biết người đó là ai nhưng làm bộ ngu-ngơ.
- Bạn Loan hả? Xin lỗi trước nghe, phòng bê bối lắm. Mời vào…
Lần đầu vào phòng nó, nàng bẽn lẽn như nai-con lần đầu bước ra khỏi rừng, đến ven suối soi bóng mình trên dòng nước.
Nó giả vờ ngạc nhiên.
- Ủa! Châu…
Nàng mỉm cười chào. Nó gắng mỉm cười chào lại. Giờ đây, nó như người buồn ngủ đã qua cơn. Mới sáng nay, nó còn nhớ nàng quay quắt, chỉ mong gặp lại nhau. Vậy mà bây giờ, nó chẳng thấy vui mừng cho mấy vì được gặp lại nàng. Có lẽ vì sự hiện diện của Loan hay có thể vì mặc cảm nên nó phải đóng cho trọn vai trò của mình.
- Hai bạn ngồi chơi, chờ Thanh đi thay đồ rồi tụi mình xuống Thủy-Tạ nghe nhạc.
Nó không biết nàng đã tâm sự gì với Loan chưa(?). Nhưng qua cử chỉ của nó và nàng, có lẽ Loan đã đoán được phần nào câu chuyện.
Ngồi đối diện với nàng và Loan, nó bất chợt so sánh hai mẫu người mà từ ngày quen biết đến giờ, chưa khi nào nó có ý nghĩ đó. Cả hai đều tóc dài xõa ngang vai. Mái tóc của Loan vẫn không làm Loan trở nên yếu đuối, mà trái lại càng làm nổi bật lên vóc người trẻ khỏe, tràn đầy sức sống và làm vơi bớt phần nào niềm u-uẩn trong đôi mắt. Nụ cười và hàm răng đều như bắp nơi Loan làm tăng thêm nét quyến rũ của thân hình, cái quyến rũ của một dòng thác. Ở Loan toát ra một sức sống mãnh liệt, khó mà cạn. Cho thấy, Loan có sức chịu đựng trước mọi đổi thay của cuộc sống và có thể tự mình đứng vững mà không cần nương tựa vào ai. Trái lại, mái tóc dài của nàng làm thân hình mảnh khảnh trở nên yếu đuối hơn. Nàng như sinh ra không phải để sống lâu trên cõi đời này, mà như một nụ hoa đang hé nở chẳng biết tàn phai lúc nào. Nụ cười ít khi hé môi làm tăng thêm nét liêu trai phảng phất trong đôi mắt buồn và làm khuôn mặt trái xoan trở nên quyến rũ hơn, nét quyến rũ của một hồ trăng có khói sương giăng phủ. Ở nàng tỏa ra một sự yếu mềm, sức sống như chực chờ vơi cạn. Nàng như một loài hoa chùm-gởi, cần một sự che chở và đùm bọc, vì nàng khó mà chịu đựng được giống tố của cuộc đời. Nó so sánh không phải để chọn lựa, vì cách gì mẫu người của nàng vẫn gần gũi với nó hơn. Bên nàng, nam tính trong con người của nó hiện rõ hơn và nhiều hơn, bởi một điều rất đơn giản là: ở nàng đầy nữ tính. Loan đã đem nó với nàng lại gần nhau như thuở nào. Chuyện tình mà nó tưởng đã chấm dứt, nay lại bắt đầu một lần nữa, sự bắt đầu vẽ lại của một nét không mang nhiều cảm hứng và nhiệt tình như buổi ban đầu. Nó dè dặt vẽ lại từng đường nét, những nét mà trước đó nó vẽ rất tự tin. Từ hôm Loan đến nhà nó để ở trọ, nàng thường xuyên đến chơi với Loan, nhưng nó nghĩ rằng nàng thật sự đến để nối lại tình xưa. Có lẽ, nàng cũng lo sợ rằng trong lúc cô đơn nó sẽ san sẻ tình yêu cho Loan, cho dù nó không phải là hạng người hay thay lòng đổi dạ. Nó cũng không có cơ hội để thân mật với nàng, vì sự có mặt của Loan. Những lần đi chơi với nhau, nó cư xử với nàng bằng tình cảm của một người bạn, như đối với Loan. Một hôm, nó đang ngồi uống cà-phê ở cái quá nhỏ bên kia đường thì trông thấy nàng đến chơi như thường lệ. Nó vội vàng trả tiền và chạy về.
Gặp nàng ở cầu thang, nó ra vẻ tình cờ:
- Ủa! Châu. Ðến lâu chưa?
- Châu mới đến. Loan có nhà không? Nàng bối rối
- Loan vừa mới đi chợ để mua quà, đem về cho bà con.
- Hôm nào Loan về?
- Ngày mai. Châu lên nhà ngồi chơi, đợi chút xíu. Chắc Loan cũng sắp về.
Nàng biết “tỏng” ý định của nó (vì Loan mới đi chợ thì làm sao mà sắp về cho được). Vậy mà nàng vẫn ngoan ngoãn nghe theo nó, dù sao nàng đến chơi cũng một phần để gặp nó.
Nó mở cửa phòng, mời mọc:
- Châu vào đi.
Nàng lúng túng bước vào rồi tự động kéo ghế ngồi.
- Châu uống nước gì không?
Nàng lắc đầu và nhìn vu vơ qua khung cửa sổ. Nó vặn nhạc rồi đến ngồi gần nàng. Nó cảm thấy đầu óc trống rỗng, không biết nói gì với nàng.
Nó bật lửa, vừa mồi thuốc hút vừa hỏi:
- Thanh hút thuốc, không phiền gì Châu chứ?
Nàng lại lắc đầu. Ánh mắt nàng vẫn tránh nhìn vào mắt nó. Nó gõ nhịp theo điệu nhạc để phá tan sự ngăn cách vô hình giữa nó với nàng, vì không biết phải làm gì để xua đi cái không khí nặng nề. Nó thầm nghĩ, đây là cơ hội duy nhất để cho nó thâu ngắn cái khoảng cách dị kỳ kia lại, để nó với nàng không phải đóng kịch với nhau nữa. Nó hút một hơi thuốc dài, nuốt khói xuống lồng ngực rồi nhả ra từ từ, như để tập trung can đảm. Nó dụi điếu thuốc vào cái gạt tàn rồi nhẹ nhàng đến đứng sau lưng nàng, lặng lẽ nhìn nàng. Ðôi vai nàng rung rung…
Nó nhẹ nhàng đặt đôi tay lên bờ vai của nàng và dè dặt hỏi:
- Châu còn giận Thanh hả?
Nàng chỉ lắc đầu…
- Sao Châu không nói chuyện?
Nàng vẫn lặng yên…
Nó kéo nàng quay ngược hẳn lại, đối diện với nhau. Nàng không phản ứng gì lại, mà chỉ cúi đầu. Nó nâng khuôn mặt nàng lên, nhìn vào mắt nàng. Ánh mắt nàng ngập đầy bối rối và đôi môi nàng rung rung. Nó ôm nàng và nâng dậy rồi nhanh như chớp, nó gắn môi mình vào môi nàng. Ðôi môi nàng ướt mềm như một cánh hồng còn đẫm sương khuya. Ðôi tay nó xiết chặt lấy nàng, như trói lại. Nàng như một khối băng đang tan dần trước nụ hôn cuồng nhiệt, nóng bỏng như mặt trời…
Nó ôm nàng lên, bồng lại giường rồi thận trọng đặt xuống.
Nàng cảnh báo:
- Ðừng làm Châu sợ. Châu không lại chơi nữa đâu…
Nó không nói lời nào, chỉ lặng yên ôm lấy khuôn mặt nàng và say mê hôn đắm đuối, như con thú đói đang say mồi…
- Thanh ơi… dậy chưa?
Giọng Loan từ thang lầu vọng lên. Nó buông nàng ra. Nàng ngồi bật dậy như cái lò-xo rồi vuốt lại mái tóc và vội vàng đi lại ghế, ngồi xuống như lúc đầu. Nó loay hoay bên cái máy thâu âm, ra vẻ đang ngồi thay băng nhạc. Vừa lúc, có tiếng gõ cửa phòng.
- Vào đi.
Loan đẩy cửa, vồn vã:
- Thanh… Ủa! Châu, đến lâu chưa?
Nét mặt và ánh mắt của Loan thoáng hiện chút suy tư, để khỏa lấp phần nào, Loan nói tiếp mà không đợi nàng trả lời:
- Loan định rủ Thanh xuống nhà Châu chơi. Ðúng là không hẹn mà gặp…
Nó nói thêm như để đỡ lời cho nàng:
- Châu cũng vừa mới đến thôi. Nghe Thanh nói, Loan đi chợ sắp về nên ngồi chờ. Loan mua đồ xong chưa?
- Xong rồi. Chỉ có vài gói mứt với ít ký khoai lang khô.
- Ngày mai, Loan đi lúc mấy giờ? Nàng hỏi
- Chín giờ. Còn đủ thì giờ cho tụi mình đi ăn hàng. Ngày mai, Châu lên đây rồi tụi mình cùng đi. Loan khao đó nhe.
Nàng nhìn Loan gật đầu.
- Có quán bún bò Huế mới mở, nghe nói ngon lắm đó. Nó nói
- Hay là tụi mình đi ăn bây giờ đi, Châu thấy “kiến bò trong bụng” rồi nè. Châu mời đó. Nàng đề nghị
Nó biểu đồng tình với nàng:
- Có lý à. Thanh cũng thấy đói bụng rồi.
- Vậy tụi mình đi, Loan chỉ còn hôm nay nữa thôi. Ăn xong, tụi mình xuống Thanh-Thủy nghe nhạc, với lại để chụp vài tấm hình làm “kỹ nghệ”. À! Ghé rủ Thơ đi luôn cho vui.
Ðể không khí thêm thân mật nên nó chọc Loan bằng cách hát:
- …chỉ còn hôm nay nữa thôi là xa nhau rồi. Người đi…
Loan nhăn mặt, mỉm cười và hối:
- Thôi đi “ông” ơi. Ði cho rồi, ở đó mà rên rỉ.
Nó và nàng cùng mỉm cười theo rồi cả ba rời khỏi nhà…
Rốt cuộc thì nó với nàng lại thắm thiết như xưa. Tình yêu làm nó thấy cuộc đời đẹp hơn và tươi hơn. Hàng tuần, nó và nàng gặp nhau thường xuyên để đi chơi, coi phim hay xuống chợ ăn vặt. Sau đó, nó với nàng trở về căn phòng riêng của nó để nằm bên nhau nghe nhạc và âu yếu nhau. Có lúc, đôi tay tham lam của nó mạo hiểm đi khám phá từng vùng thân thể nàng. Nhưng nó cũng chỉ như đứa trẻ đứng ngắm nhìn những cái bánh, những món đồ chơi lạ mắt được trưng bày trong tủ kính mà chẳng thể nào lấy làm sở hữu cho riêng mình. Ðối với nó, như vậy cũng đã quá đủ rồi. Nó không có quyền đòi hỏi hơn ở nàng. Vả lại, nó nghĩ việc gì phải đến thì sớm muộn gì nó cũng đến. Trái đến mùa sẽ chín, hoa đến kỳ tự nhiên sẽ nở và tình yêu đến một giai đoạn nào đó, tự nó sẽ lên ngôi. Khi tình yêu chín mùi, người ta sẽ hiến tặng cho nhau tâm hồn cùng thể xác một cách thiêng liêng mà không hề toan tính hay đắn đo sợ hãi…
Như đã hẹn trước với nhau, nàng đến gặp nó để dọn dẹp căn phòng khách và chuẩn bị cho buổi họp mặt khiêu vũ. Thơ, Hoàng, Sơn, Phú cũng đến sớm để phụ dọn dẹp và sắp đặt mọi thứ. Căn phòng rộng nhưng nhờ ánh sáng dịu và mờ (vì được phủ lại bằng giấy bóng màu) nên có vẻ ấm cúng hơn. Bạn bè chia nhau mỗi người chịu trách nhiệm mỗi việc. Nó lo về âm thanh và chọn nhạc. Hoàng với Thơ lo về ánh sáng, Sơn với Phú lo tiếp tân. Gọi là tiếp tân cho “kêu” vậy thôi, chứ có bao nhiêu “mạng” đâu (chừng tám-chín cặp, mà toàn là người quen). Về phần ẩm thực, thông thường thì mỗi cặp phụ vào một chút để mua bánh kẹo và nước uống, nhưng hôm nay là sinh nhật nàng nên nó phải trút hầu bao để chiêu đãi. Ðến giờ hẹn, nó xuống nhà để đón các bạn, nói là đón chứ thật ra là ngồi để gác cửa, canh chừng sự để ý của công an. Khi cặp nào đến thì giả vờ như hỏi thăm về điều gì đó rồi dòm xuôi dòm ngược, dòm tới dòm lui, nếu không thấy bóng dáng nào khả nghi thì nhanh chân “dọt” vào nhà. Ðợi mọi người đến đầy đủ, nó nhìn khắp “bốn phương”, thấy an toàn rồi mới kéo cánh cửa sắt lại và “chuồn” lên nhà. Mở đầu, nó giới thiệu nàng với mọi người và lý do của buổi họp mặt. Tiếp theo, mỗi người tự giới thiệu mình cho nhau. Nàng đứng cạnh nó, nét mặt trở nên rạng rỡ và kiêu sa hơn dưới ánh sáng của những ngọn bạch-lạp. Ánh sáng trắng lóe lên từ máy chụp hình (làm nó hơi chói mắt) khi nó với nàng chụm đầu lại và lấy hơi để cùng thổi tắt những ngọn nến trên chiếc bánh kem có ghi hàng chữ “MỪNG SINH NHẬT - MINH CHÂU - 23/12/83”, trong lúc đó bạn bè vỗ tay và cùng hát chúc mừng sinh nhật nàng rồi tặng quà. Tiếp theo, nó và nàng mở đầu cho phần khiêu vũ bằng điệu Valse chậm, với bài Romance (do một cầm-thủ danh tiếng người Tây-Ban-Nha độc tấu bằng Tây-ban-cầm) được phát ra từ máy thâu âm. Nó dìu nàng trong tiếng vỗ tay của bạn bè. Ngọn đèn chính ở giữa phòng được bọc lại bằng giấy bóng kính màu đỏ, làm không gian trở nên mờ ảo vào không khí trở nên ấm cúng, tình tứ hơn. Nó với nàng chìm đắm trong hạnh phúc, cái hạnh phúc thật đơn giản nhưng in đậm trong lòng nó. Nó cảm thấy hồn mình lâng lâng và những tế bào trong cơ thể như bị men tình kích thích đến tột cùng. Nó ôm nàng sát hơn, hai thân thể như dính vào nhau. Nó và nàng tựa đầu, nhìn nhau trong đắm đuối. Nó chợt khao khát điều gì đó, một sự khao khát rất tự nhiên giữa đôi tình nhân. Cái đam mê đó dù mang nhiều dục tính, nó vẫn hồn nhiên như được thể hiện ở một tác phẩm nghệ thuật. Qua đó, người ta chỉ thấy cái đẹp chứ không thấy lố lăng hay thô tục, cho dù đó là tác phẩm phơi bày ra tất cả các phần thầm kín trên thân thể một cô gái hay đó là tác phẩm phác họa một đôi trai gái đang giao tình thì người ta vẫn không thấy xấu xa, vẩn đục. Nàng như cũng có cùng một cảm xúc với nó. Ðôi môi của nó và nàng hồn nhiên tìm đến nhau, quên cả bạn bè đang ngồi chung quanh, quên cả không gian và thời gian. Hai tâm hồn như tan loãng và hòa lẫn vào tiếng nhạc. Những nốt nhạc ở cuối bài được rải thưa và nhỏ dần trước khi dứt. Tiếng vỗ tay làm đôi tình nhân giật mình, tỉnh mộng…
Nó nằm trong phòng, đợi nàng như mọi khi. Vừa tắm xong nên nó cảm thấy sảng khoái. Nó với tay lấy điếu thuốc và ly cà-phê sữa đá trên cái bàn ngủ rồi thuận tay mở nhạc. Ðang tận hưởng những dòng nhạc và hương vị của chất cà-phê đăng đắng, nó nghe tiếng mở cửa phòng rồi tiếng lách cách khóa lại. Biết chắc là nàng đến nên nó giả vờ như đang say ngủ.
Nàng lại ngồi gần cạnh nó, hỏi vu vơ:
- Ngủ rồi hả?
Nó nín thinh. Nàng tưởng rằng nó ngủ thật nên rón rén nằm xuống cạnh nó, vì sợ làm nó tỉnh giấc. Vừa khi đó, nó choàng tay để ôm chặt lấy nàng.
- Hừm! Giả bộ ngủ há?
Nó nhìn nàng, cười quỷ quyệt. Bên ngoài, trời âm u như sắp mưa.
Một màu xám xịt giăng kín khung cửa sổ.
- Lạnh không? Nó hỏi
Không để nàng trả lời, nó kéo nàng vào trong chăn với mình.
- Người Thanh ấm ghê!
- Eo ơi! Tay Châu lạnh quá à.
Nói xong, nó rùng mình rồi co người lại vì nhột.
Nàng tinh nghịch thò bàn tay vào trong áo nó và đùa:
- Thì… Lạnh nè… Nàng cười khúc khích
- Eo!…
Nó cong người lại để tránh né bàn tay nàng, chưa kịp nói gì thêm thì nàng đã dán miệng nó lại bằng một nụ hôn. Nàng vừa hôn vừa mân mê bộ ngực xương xẩu của nó. Nụ hôn cuồng nhiệt đắm say như một thứ năng lượng diệu kỳ, làm ngọn lửa tình trong lòng nó bùng lên rạo rực. Bàn tay của nó cũng tinh nghịch đùa giỡn với những cái khuy áo của nàng và xa hơn… Nhưng ngón tay tham lam vuốt ve từng vùng da thịt nàng. Da nàng mềm và mịn như một dải lụa. Nó lấy ngón tay vẽ những vòng tròn xoắn ốc trên ngực nàng, đôi ngực căng tròn nhựa sống như quả bong bóng căng đầy hơi. Nó và nàng nhìn nhau say đắm rồi nàng nhẹ nhàng khép đôi mắt lại. Tình yêu tỏa hương thơm ngát như báo hiệu giây phút lên ngôi đã cận kề. Nó từ từ cúi xuống, hôn lên cổ và lên ngực nàng. Bên ngoài, trời đã mưa từ lúc nào mà nó đâu có hay. Nó còn hay biết gì được nữa, ngoài những cảm giác đê mê và lâng lâng đang rạo rực chạy quanh trong từng tế bào, trong từng mạch máu, trong từng sợi thần kinh…
Nàng nhẹ đẩy nó ra và quở:
- Tham lam vừa thôi. Cắn người ta đau quá à…
Nó khẽ bẽn lẽn, phân trần:
- Yêu nhau lắm, cắn nhau đau mà.
- Ðau vừa vừa, chứ đau quá người ta “sợ” đó.
Nói xong, nàng kéo nó nằm xuống và nói tiếp:
- Thanh nhắm mắt lại đi.
Nó ngoan ngoãn “tuân” theo.
Nàng lấy ngón tay, từ từ viết lên trán nó “MªN” rồi hỏi:
- Biết chữ gì không?
Nó vẫn nhắm mắt, nói:
- Châu viết lại đi.
Nó tập trung tư tưởng để suy đoán trong lúc nàng viết lại từng nét.
- Chữ em-mờ.
Nàng tiếp tục viết.
- Chữ gì kỳ vậy? Nó thắc mắc
- Không phải chữ, mà là một… một cái gì đó đó.
Nàng giải thích cho nó rồi viết lại lần nữa.
- A! Trái tim, phải không? Nó reo lên
- Ưm… Giỏi.
Nàng khen nó và viết tiếp.
- Chữ anh-nờ. Nó nói
- Ðúng rồi. Thanh hiểu gì không? Nàng hỏi
Nó mở mắt ra, nhìn nàng rồi lắc đầu, hỏi lại:
- Nghĩa là gì?
Nàng nhìn nó, không trả lời mà nhẹ nhàng cúi xuống hôn nó thật nồng nàn rồi hỏi lại:
- Hiểu chưa?
Nó nhíu mày suy nghĩ rồi mỉm cười trả lời:
- Hiểu rồi.
Trả lời xong, nó viết lại trên trán nàng “NYM”.
- Nghĩa là gì? Nàng hỏi
- Biết rồi mà còn hỏi.
Nàng nũng nịu:
- Châu muốn Thanh nói ra cơ.
Nó ôm nàng vào lòng, thỏ thẻ:
- Có những điều mà người ta không thể diễn đạt hết ý nghĩa của nó bằng lời nói, mà chỉ có thể được cảm nhận bằng con tim.
Nói xong, nó hôn lên mặt, lên môi rồi lên khắp cùng thân thể của nàng. Cả hai đắm chìm trong hoan lạc, chập chững làm tình nhân để nó không còn là con trai và nàng không còn là con gái. Hai tâm hồn và hai thể xác quyện vào nhau… Lần đầu tiên ân ái, nó vụng về như buổi đầu đi học, cầm cây bút đồ những nét nguệch ngoạc và ngộ nghĩnh lên các chữ A B C đã được in sẵn trên tập vở. Nàng vuốt lại làn tóc rối rồi gối đầu lên cánh tay nó. Nó ôm nàng vào lòng, trong lúc nàng vuốt ve những đốt xương trên lưng của nó. Cả hai cùng yên lặng như để tận hưởng cho hết dư hương mặn nồng còn phảng phất trên gối chăn. Một tiếng sấm nổ vang ngoài trời làm nàng giật mình và ôm chặt lấy nó.
- Thanh biết gì không? Nàng hỏi
Nó bóp nhẹ bàn tay nàng và hỏi lại:
- Biết gì?
Nàng thầm thì:
- Sau này nếu mình có con, Châu ước có con trai giống Thanh như đúc.
Nó kéo chăn lên ngang cổ vì cảm thấy lành lạnh rồi hỏi nàng một câu thật ngốc nghếch:
- Ðể làm gì?
Nàng thật thà:
- Ðể lỡ như sau này, nếu Thanh chết trước thì Châu còn có nó để an ủi.
- À… Á… Trù người ta chết há! Ðược rồi, “ta” chết ngay đây.
Nói xong, nó nằm duỗi thẳng tay chân và nín thở, giả như chết.
Nàng lay nó, nài nỉ:
- Khoan đã, đừng chết vội mà.
Nó vẫn nhất định giả chết nên nàng phải cấp cứu với phương pháp tiếng dưỡng khí bằng miệng. Vành môi nàng mềm và mọng ướt khiến nó hồi sinh. Hai tay nó cử động rồi ghì chặt lấy nàng, kéo nàng nằm xuống và trườn lên quấn lấy nàng như con trăn quấn mồi. Bên ngoài, trời vẫn chưa ngớt mưa…
Tình yêu, phải chăng là sự kết hợp giữa hai tâm hồn và hai thể xác. Hạnh phúc lứa đôi sẽ không gắn bó nếu thiếu tình dục và ngược lại, tình dục sẽ trở nên nhàm chán nếu thiếu tình yêu(?). Trong cuộc sống lứa đôi, tình yêu với tình dục đều cần thiết và hỗ tương cho nhau để xây dựng hạnh phúc gia đình, thiếu một trong hai yếu tố đó thì hạnh phúc sẽ trở đổ vỡ. Nếu như nước (H2O) là sự kết hợp hài hòa giữa hai nguyên tố H (khinh khí) với một nguyên tố O (dưỡng khí) thì hạnh phúc là sự kết hợp uyển chuyển giữa hai phần tình yêu với một phần tình dục. Khi hiểu như thế thì tình dục không có gì xấu xa để phải tránh đề cập đến. Trái lại, ái ân là một nghệ thuật cần tìm hiểu để giữ gìn hạnh phúc. Ta không nên ân ái chỉ vì nhu cầu sinh lý đòi hỏi hay chỉ xem đó là bổn phận để sinh con nối dõi. Thông thường thì những gì quen thuộc dễ trở thành nhàm chán. Cũng như, nếu chỉ ăn một món thức ăn từ ngày này qua ngày nọ, bạn không còn thấy ngon miệng nhưng đó là lỗi ở bạn đã không biết cách chế biến và vì bạn nghĩ đến những món ăn khác lạ. Ðiều cần thiết cho bạn, không phải là món ăn mà là chất dinh dưỡng trong thức ăn. Sự khác nhau giữa người họa sĩ và anh thợ-vẽ là người họa sĩ sáng tạo bằng tâm hồn và cảm xúc, trong khi anh thợ-vẽ vẽ bằng năng khiếu. Mỗi bức tranh của người họa sĩ như mang trong nó tâm hồn và cảm xúc của chính họ, nó chứa đựng từng tâm trạng khác biệt, không có bức nào giống nhau. Những họa phẩm của họ thường để lại một ấn tượng nào đó trong lòng người thưởng lãm. Còn anh thợ-vẽ có thể vẽ nhiều tấm hình như nhau vì nhu cầu vật chất để mưu sinh, khi nhìn vào ta có thể thấy nó đẹp nhưng ít mang cảm xúc hay gây ấn tượng trong lòng người xem. Trong chuyện chăn gối, ta hãy là người họa sĩ chứ đừng làm anh thợ-vẽ. Không phải chúng ta cổ xúy cho dục tính hay sự thác loạn của thú tính trong con người. Tình dục tự nó không có gì đồi bại, xấu hay tốt, hoặc lợi hay hại là do người hành xử. Tình dục có thể ví như con dao, nếu ở trong tay của người nội trợ thì nó là vật hữu ích, trái lại nếu ở trong tay kẻ sát nhân thì nó là vũ khí giết người. Mọi thứ trên đời, nếu con người sử dụng vào điều xấu thì nó trở nên xấu, ngược lại nếu được dùng để làm việc tốt thì nó trở nên tốt. Những khám phá của các nhà khoa học và bác học, nếu được áp dụng để phục vụ cho lợi ích của loài người, chứ không phải để hủy diệt đời sống (kể cả môi sinh) thì cuộc sống tươi đẹp biết bao. Chính con người tạo ra bất công và tội ác rồi cũng chính con người đòi công bình và thiện mỹ, chính con người đòi hòa bình và tự do rồi cũng chính con người tạo ra chiến tránh và áp bức. Nếu như mọi người, ai cũng tự biết mình và biết hưởng thụ đúng mức với khả năng của mình thì hạnh phúc tự nó đã có mặt. Ðừng cư xử với người khác điều mà bạn không muốn họ đối xử với mình. Bạn muốn được sinh tồn và sống trong hạnh phúc thì tạo sao bạn lại hủy diệt sự sống và mang đau khổ đến cho người và những sinh vật khác(?). Hãy đối xử với mọi người và mọi loài như bạn muốn được đối xử như thế. Nếu bạn thật sự hiểu được rằng mọi thứ trên đời chỉ là hư ảo, cái đẹp rồi cũng tàn, sự giàu sang rồi cũng trả lại cho đời khi nhắm mắt xuôi tay, thì có lẽ bạn sẽ dễ dàng chấp thuận cuộc sống hơn và yêu thương mọi người, mọi loài hơn…
Nó nằm suy nghĩ mông lung. Băng nhạc đã hết, tiếng nhạc ngưng mà nó vẫn không hay biết.
Nàng lay nhẹ vai nó, nói:
- Hết băng rồi kìa.
- Nó chồm dậy, thay băng nhạc rồi thình lình kéo tung tấm chăn đắp để nhìn ngắm thân thể nàng. Nàng mắc cỡ giành lại rồi phụng phịu không bằng lòng vào véo tai nó, kéo nó nằm xuống.
- Úi… da… Thì thôi. Nó xuýt xoa
- Ai biểu…
Nó nâng niu bàn tay nàng như để “chuộc tội” và hỏi:
- Nếu như sau này vì một lý do nào đó, mình không lấy nhau được thì sao?
Câu hỏi không làm nàng băn khoăn, bằng một giọng nhỏ nhẹ nàng trả lời:
- Làm sao có chuyện đó được. Mình “lấy” nhau rồi đó thôi.
Nó hỏi lại một câu không thông minh chút nào:
- Lấy hồi nào?
- Vừa mới “lấy” đó thôi.
- Thanh muốn nói là lấy nhau thật sự cơ, có đám cưới đàng hoàng.
Nàng trườn lên, áp mặt trên ngực nó và tình tứ nói:
- Kể từ bây giờ thì với em, mình đã là vợ chồng rồi. Dù định mệnh không cho mình sống chung bên nhau thì em nguyện không lấy ai khác, em sẽ sống như một góa phụ để yêu anh suốt đời. Nếu như có kiếp sau thì em cũng nguyện yêu anh mãi mãi. Em cứ ngỡ rằng mình đã yêu nhau từ kiếp nào xa xưa, như câu hát mà ngày mới quen nhau anh hát cho em nghe đó, anh còn nhớ không?
Nó vuốt những sợi tóc xõa trên khuôn mặt nàng.
- Làm sao mà anh quên được.
Nàng nhìn nó, nũng nịu nài nỉ:
- Anh hát lại cho em nghe đi.
Nó chợt nhận ra rằng nàng và nó xưng hô với nhau lần đầu tiên bằng “em và anh” thật tình tứ, rồi lấy giọng khẽ hát.
- Một lần gặp gỡ, ngỡ như quen thuở nào. Một lần gặp gỡ nhưng tình ngỡ xa xưa…
Nó ngừng hát, hỏi nàng:
- Em biết gì không?
- Gì hả anh? Giọng nàng tha thiết
- Nếu như em có tan biến đi chăng nữa thì em vẫn mãi mãi gần anh như là hơi thở. Cho dù sau này, mình không được sống gần nhau thì em vẫn mãi mãi là người tình đầu tiên, cũng là người yêu cuối cùng và muôn thuở của anh.
Nàng hỉnh mũi làm duyên.
- Ưm… anh “xạo” lắm.
Nó trêu nàng:
- Bây giờ em mới biết thì hơi muộn rồi.
Nàng nhõng nhẽo:
- Còn khuya á. Anh mà dám bỏ em hả?
- Bỏ em thì sao?
- Thì em khóc chứ làm sao! Nàng cười
- Làm sao mà anh dám “bỏ em một mình”.
- Thiệt không đó?
Nó vuốt tóc nàng và nói:
- Thiệt đó. Tại vì anh sợ rằng bỏ em, anh sẽ mang tội rồi khi chết phải xuống địa ngục.
- Anh mà xuống địa ngục, em cũng theo xuống nữa.
- Thôi đi “cưng”. Ở địa ngục khổ lắm, em chịu không nổi đâu. Hơn nữa, em mà chết rồi sẽ được lên thiên đàng và quên anh ngay.
- Nếu lên thiên đàng mà không gặp anh, em sẽ xin thiên sứ cho em xuống địa ngục để tìm anh.
- Anh đã bảo rằng ở địa ngục khổ lắm mà.
Giọng nàng xúc động:
- Nhưng ở thiên đàng mà không có anh, còn khổ hơn là ở địa ngục mà gần anh. Anh…
- Gì hả em?
- Hôn em đi…
Nói xong, nàng nhìn nó, chờ đợi. Nó nâng khuôn mặt nàng lên, để nàng gối đầu trên cánh tay của nó và nhìn nàng trìu mến. Ðôi mắt nàng long lanh niềm hạnh phúc, cái hạnh phúc mong manh như hạt sương mà nàng sợ tan mất không biết vào lúc nào. Nó cúi xuống hôn đôi mắt nàng, uống vào những giọt ngà (như con ong đang hút mật) rồi hôn môi nàng, chia sẻ cho nàng cái vị mặn ấm của tình yêu (như con chim đang mớm mồi) và rồi chính nó cũng khóc mà chẳng hiểu vì sao. Bên ngoài, nắng đã lên…
Ðã hơn một năm từ ngày trở về, có đôi lần nó muốn bàn chuyện cưới hỏi với nàng nhưng lại đắn đo. Nó tự nghĩ, không biết mình sẽ làm gì để bảo đảm đời sống cho hai đứa (chưa nói đến con-cái sau này). Cực khổ thì nó đã quen nhưng đồng lương cũng chỉ đủ tiêu vặt muốn làm ăn thì phải có vốn mà nó lại trắng tay. Ðôi khi nàng nói xa nói gần về chuyện lấy nhau, làm nó bối rối nên nàng cũng tránh, không muốn nó phải bận tâm thêm. Nó với nàng thỉnh thoảng cũng giận hờn như bất cứ cặp tình nhân nào nhưng hờn giận cũng chỉ được vài hôm (lâu lắm là một tuần) rồi lại tìm đến nhau cho giận hờn tan đi trong những nụ hôn, trong những lần đắm đuối ái ân bằng đam mê cuồng si của tuổi trẻ…
Nàng giận nó đã mấy ngày rồi, chỉ vì nàng ghen. Chứ thật ra, nó đâu có tình ý gì. Cách đó vài hôm, nó ngồi nhậu với Cường (người quen ở Sài-Gòn lên chơi) tại Thủy-Tạ, đến lúc sắp sửa về thì hai cô gái xuất hiện ở cửa, làm Cường ngẩn ngơ.
- Ê! Ngồi chút nữa đi. Có hai “con-bé” mới vào, nhìn “hay” ghê!
Nghe Cường nói, nó nhìn vào trong thì thấy Phượng (em của một người học chung lớp với nó ngày trước) với cô bạn (nó đoán thế) đang kéo ghế ngồi, ngay ở cái bàn cách chỗ nó ngồi chỉ có cái khung cửa kính. Nó định quay lại để nói chuyện với Cường thì Phượng bất chợt nhìn ra. Bốn con mắt nhìn nhau như đấu nội lực. Nó có “tài” nhìn lâu không chớp mắt nên cuối cùng Phượng đành chịu thua và mắc cỡ quay sang cô bạn. Hai cô gái nói nhỏ với nhau điều gì rồi cười khúc khích. Bất giác, nó chớp mắt và mỉm cười với Phượng. Cường cao hứng, gọi thêm mấy cốc rượu. Nó đã chếnh choáng hơi men nhưng nổi máu “hùng anh” nên cố uống thêm.
Cường đốt thuốc hút và hỏi:
- Mày quen hả?
Nó cười tinh ranh, trả lời:
- Biết thôi chứ không quen.
- Mày “ngon”, thử vô mời ra đây ngồi chung coi. Cường khích
Nó đứng dậy nhưng lại ngồi xuống ngay. Miệng nó đầy hơi rượu, chỉ nghe mùi thì người ta đủ sợ rồi, chứ nói gì đến “mời với mọc”. Kinh nghiệm “chiến trường” cho nó biết rằng mở lời làm quen với phụ nữ khi đang “lưu linh ở cõi hồng trần” là thất-sách. Nó thay đổi “chiến thuật”, gõ nhẹ vào khung cửa kính rồi cười xa giao khi hai cô gái nhìn ra. Nó duỗi thẳng hai bàn tay về phía họ rồi từ từ quay hai bàn tay hướng ra ngoài, để thay cho lời mời. Hai cô gái lấy tay che miệng cười rồi nhìn nhau và kề tai nhau, thầm thì to nhỏ. Sau đó, Phượng quay ra, gõ lên khung kính rồi chỉ vào nó với Cường và ngoắc vào.
Cường hấp tấp nói:
- Vô mày…
Nó hút một hơi thuốc rồi khoan thai nhả khói.
- Từ từ, đi đâu mà vội.
Nó biết “phao” chỉ mới động đậy thôi, hấp tấp quá “cá” sẽ không “cắn câu”. Cứ thong thả, chờ “cá đớp mồi”, đợi đến khi “phao” chìm rồi mới nhấc càn câu lên thì “chạy đằng trời”. Hơn nữa, bên trong nhiều người dòm ngó, mất tự nhiên. Ngồi ở ngoài, có tán hươu tán vượn cũng chẳng ai cười. Nó chỉ cho Cường lối nói chuyện với hai cô gái bằng cách làm dấu và viết ngược trên khung kính. Thỉnh thoảng, nó thấy vài người ngồi bên trong tò mò nhìn nó hí hoáy viết vẩn vơ trên khung kính, hay cũng có thể họ nhìn hai cô gái (ở cái thành phố bé tí này, hơi có nhan sắc thì đi đâu cũng được người ta chú ý). Ðường phố mới lên đèn. Trăng thượng tuần soi bóng trên mặt hồ, thỉnh thoảng một cơn gió thoáng qua làm bóng trăng hình lưỡi liềm dao động, trông như con sâu đóm đang ngúc ngoắc trên mặt nước. Quán mỗi lúc mỗi đông vì “thiên hạ” thường đi chơi vào chiều tối. Kể ra, ngồi với người yêu ở Thủy-Tạ để ngắm trăng sao và mây nước thì thơ mộng, tình tứ biết mấy (nhất là vào những ngày tròn trăng, khi trăng vừa mới lên sau sườn núi, vắt vẻo sau ngọn cây hay lung linh trên mặt hồ). Có khi, ánh trăng tròn tựa như một thứ trái dị thường đang chín mọng (đầy nhựa sống như ngực của nàng xuân nữ), để bất chợt có một lúc nào đó, thi nhân thèm cắn vào trăng cho bật trào ý thơ, để thơ chảy lai láng khắp trần gian, mang nguồn sống đến cho những tâm hồn đau khổ và lãng mạn. Không làm thơ được, có lẽ Hàn-Mặc-Tử hay Bùi-Giáng… đã tự kết liễu đời mình cho hết khổ đau và uẩn ức. Với thi nhân, thơ là hơi thở. Nếu Xuân-Diệu, TTKh… không có những bài thơ ca ngợi tình yêu (dù đó chỉ là những mảnh tình tuyệt vọng và đầy khổ đau, ngang trái) thì tên tuổi của hai thi nhân chắc đã rơi vào quên lãng. Những vần thơ hay, ít nhiều đã chẳng chứa đựng khổ đau và oan trái đó sao! Một cơn gió từ mặt hồ thốc lên, mang theo hơi lạnh.
Cường kéo cổ áo măng-tô lên cao rồi cuộn tròn hai tay lại cho ấm và nói:
- Vô trong ngồi cho ấm, Thanh ơi.
Nó nghĩ rằng đã lỡ ngồi ở ngoài mấy tiếng rồi, ráng ngồi thêm chút nữa cũng chẳng sao.
- Ngồi chút nữa đi. Uống hết ly nào rồi về luôn.
Nói xong, nó cầm ly rượu lên và nhìn Cường rồi tiếp:
- “Dô” cái đi…
Cường cầm ly lên “cụng”.
Nó chưa kịp uống thì Cường lại nói:
- Thôi. Ði… Ði… Thanh ơi…
Nó chẳng biết ất giáp gì, quay nhìn vô trong thì thấy Phượng với cô bạn đang đứng dậy và vẫy tay chào.
Nó nhìn Cường, mỉm cười và nói:
- Thì cạn ly cái đã.
Cường cầm ly rượu, uống cạn rồi thu dọn “chiến trường”. Nó với Cường đuổi theo hai cô gái. Nói là đuổi theo, chứ thật ra đi tà tà cũng bắt kịp vì hai cô gái cố ý đi chậm lại như chờ đợi…
Không may cho nó, ÐALAT nhỏ quá nên “nhất cử nhất động” của nó thì sớm muộn gì nàng cũng biết và rồi chuyện nó đi cạnh Phượng đến tai nàng. Nó tìm đến nàng để giải thích cho nàng hiểu nhưng nàng không muốn tiếp chuyện. Nàng thường lánh mặt, có gặp được nàng thì sắc diện cũng lạnh băng rồi chỉ lạnh lùng nói với nó rằng đừng có đến gặp nàng nữa. Có lẽ, nàng muốn tuyệt giao với nó. Nó nghĩ thế là hết và tự trách mình chỉ vì “ham vui” mà nên chuyện. Dù cho phải chia tay với nàng, nó vẫn muốn chia tay bằng một kỷ niệm đẹp. Nó lấy số tiền dành dụm được, mua chiếc áo khoác để tặng nàng như một kỷ vật sau cùng.
Ngày… tháng…
Người yêu dấu ơi, có nói gì thì cũng đã muộn, phải không em? Anh chẳng mong gì hơn là cầu chúc cho em lại được sự hồn nhiên trong tâm hồn rồi ngày tháng sẽ giúp vết thương lòng vơi đi. Em cứ nguyền rủa anh đi. Riêng anh, anh xin tạ ơn em đã trao anh tuổi thanh xuân của mình. Anh biết rằng em không hối tiếc bởi vì em yêu anh, phải thế không Châu? Thế mà, anh lại trách mình đã nhận để giờ đây phải ray rứt. Hãy nói cho anh biết, anh phải làm gì để chuộc lại những lỗi lầm của mình, hả Châu? Xa nhau, anh chỉ xin em đừng khóc, đừng hoang phí những giọt nước mắt của mình cho anh nữa. Có chút quà mà anh đã mua, sau những giờ lang thang tìm lại dấu vết tình ta trong kỷ niệm, xin tặng em như chứng vật sau cùng. Chẳng hiểu vì sao anh lại khóc khi gói món quà lại, anh yếu đuối quá, phải không em? Chiều hôm qua, anh xuống thăm Sơn và Phú. Ngồi uống rượu với các bạn mà anh cứ nhớ em. Mọi người thấy anh buồn nên đoán là mình giận nhau (chứ không biết là mình sắp chia tay nhau mãi mãi). Phú hát tặng anh một bài nhạc mà anh còn nhớ mang máng như sau: “… em hãy theo anh lên đồi, tìm cuộc tình trên xác lá thông… theo anh lên trên đồi tình, nghe thông ca ru chuyện mình… em, anh yêu em trọn đời… Châu ơi, tình này trót trao rồi. Yêu Châu, một mình Châu, nên trọn đời Thanh chỉ yêu mình Châu…”. Anh đã cố gắng để đừng phải khóc và anh uống thật nhiều rượu để đừng phải nhớ em nhưng không hiểu sao, anh lại nhớ em nhiều hơn. Khi về nhà, anh thiếp đi với hình ảnh em chập chờn trong giấc mộng. Có viết nhiều thì cũng chỉ để gói ghém một điều mà em đã biết, là: “ANH YÊU EM”, Thanh.
Nó đọc lại là thư và để vào trong gói quà rồi đến nhà Huyền, nhờ Huyền trao lại cho nàng. Nó dặn Huyền, khi nào rời khỏi nhà nàng thì đến quán Anh-Ðào, nó chờ ở đó. Nó nghĩ rằng nàng với Huyền là bạn thân, thế nào mà nàng chẳng tâm sự.
Nó uống xong hai ly cà-phê và hút hết gói thuốc lá thì Huyền mới tới.
Nó kéo ghế, mời Huyền ngồi và hỏi:
- Huyền uống gì?
- Gọi cho Huyền ly nước chanh.
Từ ngày quen biết, nó chỉ nói chuyện với Huyền vài lần nhưng làm chung chỗ với nhau, gặp nhau hằng ngày rồi chào hỏi mãi cũng thành thân.
- Châu thế nào? Nó hỏi
Huyền nhìn nó, không trả lời mà hỏi lại:
- Bộ hai người có chuyện nghiêm trọng lắm hả?
Nó xoay xoay gói thuốc lá trong tay.
- Chẳng có gì “quá” lắm nhưng lỗi cũng tại Thanh.
Huyền chợt nhớ ra rằng nó đang nóng lòng muốn biết tin nàng.
- À! Còn Châu, thấy nó có vẻ buồn lắm. Trong nhà có khách nên hai đứa không nói chuyện nhiều được.
- Lúc Huyền đưa gói quà, Châu có nói gì không? Nó hỏi tới
- Nó biết ngay là của Thanh và định mở ra xem nhưng lại thôi. Hai người có vẻ “bí mật” dữ há!
- Ðâu có gì, chỉ có món quà với lá thư.
Huyền uống một ngụm nước rồi nói:
- Nó dặn Huyền, ngày mai xuống cho nó nhờ chút việc. Chắc lại nhờ chuyển thư, chứ không sai.
Ðoán xong, Huyền thở dài và nói tiếp:
- Giận với hờn. Tui “mệt” hai người quá. Sao không lấy nhau cho xong chuyện?
- Thanh cũng tính rồi đó chứ… nhưng còn kẹt tiền. Phải chi mà hai đứa dắt nhau ra phường ký tờ giấy “chứng nhận kết hôn” là xong thì cũng đã lấy nhau cho “yên” …
Nó bỏ ngang câu chuyện rồi hỏi Huyền:
- Rạp Ngọc-Lan mới thay phim “Bản sonate bên hồ”, nghe nói hay lắm. Ði coi không?
Huyền lắc đầu.
- Thôi, cho tui “xin” đi. Hai người đang giận nhau. Lỡ thiên hạ không hiểu, lại nói tui “thừa nước đục thả câu”. Với lại, Huyền còn phải đi chợ mua ít đồ.
Ðang buồn, nó cũng phải cười và thầm nghĩ Huyền nói có lý.
- Ừ nhỉ. Thì lúc khác vậy. Thôi, mình về?
- Ờ. Ði về thôi…
Hôm sau, Huyền trao nó lá thư. Không hỏi, nó cũng biết là thư của nàng. Nó cầm lá thư lên phòng, nằm đọc.
Ngày… tháng…
Anh yêu, hãy cứ để em gọi như thế. Dù là giận anh nhiều nhưng em cũng không thể dối với lòng mình rằng em nhớ anh nhiều lắm, anh có biết không? Không hiểu vì sao, em cần có anh trong đời như cỏ cây cần mặt trời! Em không trách anh và cũng không muốn phải xa anh, nhưng bây giờ mỗi khi đi chơi với anh, em cảm thấy ngại ngùng. Có lần, ba nói rằng chuyện em đi chơi với anh hay yêu anh, ba không cấm cản gì nhưng đừng để người ngoài dị nghị. Cho dù em hiểu anh nhưng gia đình em đâu hiểu anh được. Gia đình thông cảm cho em nhưng thiên hạ cứ dèm pha. Từ trước đến giờ, em chưa làm gì để ba phải bận tâm, anh bảo em phải làm sao đây? Anh có nhớ lần nào đó, em đã nói rằng cho dù mình không lấy nhau được thì em vẫn mãi thuộc về anh. Giữa tình yêu và gia đình, em chẳng thể coi nhẹ bên nào cả. Em đã làm tất cả những gì có thể làm được, đã biện minh bằng mọi lý lẽ để được gần anh. Vậy mà bây giờ, không hiểu sao em trở nên yếu đuối quá, em mất hết nghị lực rồi. Em chỉ muốn buông tất cả để định mệnh mang mình đi, thôi thì cũng đành. Cách gì thì em vẫn tin rằng ngày nào đó mình lại gần nhau, không trong kiếp này thì trong kiếp sau, không ở thế giới này thì ở thế giới nào đó, anh có tin như thế không? Ngày nào, nếu anh lại ra đi, em cầu chúc anh được nhiều may mắn. Riêng em, em cảm ơn anh đã mang đến cho em những giây phút hạnh phúc bên nhau. Những ngày tháng đó tuy ngắn ngủi so với một đời người nhưng lại khó nhạt phai. Muốn viết thật nhiều để tâm tình với anh nhưng vạn lời cũng thế thôi, cũng chỉ để nói một điều mà anh đã viết. “EM YÊU ANH”. Nhớ anh thật nhiều…
Nó đọc lại lá thư rồi áp vào ngực mà tưởng như đang ôm nàng, nước mắt tràn ra khóe mi… Nó chợt ao ước có nàng bên cạnh để chia sẻ với nàng niềm thương nỗi nhớ. Nó thầm trách mình đã làm nàng khổ tâm. Bao nhiêu ngày trôi qua, nó làm gì hay đi đâu cũng chỉ nghĩ đến nàng. Cuộc sống trở thành vô nghĩa đối với nó khi vắng nàng. Nó nhận ra rằng nó cần có nàng trong cuộc sống và để được có nàng bên cạnh mãi mãi, chỉ còn một giải pháp duy nhất…
Ðang ngồi trong cửa hàng, thấy nó đi vào với dáng điệu và cử chỉ khác thường. Bố của nó lấy làm lạ, biết nó có điều gì muốn nói nên ông hỏi:
- Lại cần gì hả?
Nó lấy hết can đảm, thưa:
- Dạ… Con muốn lấy vợ ạ.
Nói xong, nó đứng lên và hồi hộp như thuở đi học chờ xem kết quả cuộc thi. Ðôi mắt nó nhìn xuống đất như vừa phạm lỗi rồi liếc nhìn bố để xem phản ứng của người. Bố nó không nói gì, chỉ nhìn nó dò xét như muốn hỏi rằng nó đã suy nghĩ chín chắn chưa. Ông lật những miếng da heo đã luộc chín, cạo sạch lông trên lớp mặt rồi liếc lại lưỡi dao và nhẹ đẩy những đường bén ngọt trên miếng da heo, tạo thành những đường sọc mỏng, đều như máy.
Mắt không rời khỏi lưỡi dao, ông hỏi:
- Thế không muốn qua với mẹ à?
- Dạ… Nó ngập ngừng
- Thôi thì… con cũng lớn rồi, tự quyết định lấy. Bố chẳng ngăn cản hay tán thành. Sau này, có sướng thì nhờ, nếu khổ thì chịu…
Ông ngừng tay, sửa lại gọng kính đã rơi xuống chóp mũi rồi ngước nhìn nó, hỏi:
- Nghe nói… cô ấy bị ung thư, phải không?
Nó bối rối, phân giải:
- Dạ, chỉ bị bướu cổ thôi… nhưng cũng đã mổ rồi ạ.
- Bệnh đó nghe đâu khó chữa lắm. Có người mổ năm lần bảy lượt cũng chưa khỏi…
Nó không biết phải giải thích làm sao nên đứng yên như đứa học trò không thuộc bài, chờ thầy cho về chỗ. Vở kịch nào thì cũng đến lúc hạ màn.
- Thế con đã định ngày cưới hỏi chưa?
Nó mừng như được hỏi trúng “câu tủ”.
- Dạ. Con cũng chưa tính vì muốn thưa chuyện với bố trước ạ.
- Thôi thì… nhờ chú thím đến nói chuyện với bố mẹ của cô ấy xem sao, để còn lo liệu.
- Dạ.
Ðáp xong, nó thở ra nhẹ nhõm như người mẹ vừa cho ra đời đứa con trong bụng, được suôn sẻ. Nó vội vàng xin phép về như sợ ông đổi ý. Nó đi một mạch đến nhà Huyền, nhờ Huyền nhắn lại với nàng rằng nó cần gặp có chuyện quan trọng rồi hẹn gặp nhau ở quán Thanh-Thủy.
Sáng hôm sau, nó thả bộ xuống bờ hồ và định vào quán ngồi chờ nàng đến. Nó nhìn đồng hồ, thấy còn sớm nên đi dạo quanh hồ để ngắm cảnh. Khi trời mùa xuân vẫn còn lành lạnh. Những cây Mai-đỏ đã trổ lá um tùm. Mặt trời rọi những tia nắng lấp lánh trên mặt hồ, nhìn như một vũ điệu của những nàng tiên ánh sáng. Xa xa, một cụm Lục-bình trôi lững lờ, trông như một chiếc bè. Một đôi tình nhân ngồi ôm nhau tình tứ trên chiếc xe đạp nước. Cảnh vật thật yên bình. Vài con chim non trên cành kêu chim chíp. Tiếng cười đùa của đôi tình nhân vọng lại nghe trong vắt như mang trong đó niềm hạnh phúc. Nó nghe lòng mình nao nao, không biết nàng có nhận lời cầu hôn và gia đình nàng có bằng lòng hay không(?). Gần đến giờ hẹn mà vẫn chưa thấy nàng tới, nó cố gắng không nghĩ ngợi gì để ngắm buổi bình minh nhưng lại thấy hồi hộp lạ thường. Nó bật lửa, mồi thuốc và hít một hơi dài. Khói thuốc chập chờn rồi tan loãng vàng hư không. Nó nhìn về phía bùng-binh ở chân dốc đường Lê-Ðại-Hành và nhận ra nàng đang đi cạnh hai người con gái khác. Khi ba người đến gần, nó thấy nàng mặc cái áo mà nó mới tặng, đi giữa Huyền và Duyên (vậy là nàng đã bỏ qua chuyện cũ, lúc nào mà nàng chẳng độ lượng). Nó mỉm cười, chào từng người. Huyền và Duyên định tách ra để nó với nàng đi bên cạnh nhau nhưng nàng vội níu Huyền với Duyên lại (chứng tỏ rằng nàng rất bồi hồi). Vào quán, nó gọi nước uống và bánh ngọt. Nó hỏi Huyền và Duyên những câu xã giao vu vơ, đốt gần hết gói thuốc lá mà nó vẫn chưa nói ra được điều muốn nói với nàng. Ðể cho nó với nàng được tự nhiên nói chuyện riêng nên Huyền rủ Duyên đi dạo quanh sân. Nó mỉm cười với Huyền để thay cho lời cảm ơn.
Nó mở đầu bằng một câu thật ngốc nghếch:
- Châu còn giận Thanh hả?
Nàng ngồi lặng yên và khẽ lắc đầu.
- Thanh… xin lỗi nhe.
Nó xong, nó cầm ly nước, đưa tận tay nàng và mời như cầu khẩn:
- Châu uống nước đi.
Nàng cầm ly nước, uống lấy lệ rồi để xuống bàn và nhìn nó.
- Thanh xanh quá vậy? Mấy hôm nay bị bịnh hả?
Câu hỏi như để nó biết rằng nàng cũng quan tâm và lo lắng cho nó.
Nó lắc đầu rồi muốn nói ra cái lý do chính của buổi hẹn nhưng cứ lúng túng không biết phải mở đầu như thế nào.
Nàng gợi ý:
- Thanh cần gặp Châu có chuyện gì vậy?
Nó dụi điếu thuốc đang cháy vào cái gạt tàn rồi nhìn nàng, nói:
- Thanh muốn mình lấy nhau. Châu nghĩ sao?
Nàng giật mình như không tin rằng nó hỏi thật nhưng nhìn ánh mắt và cử chỉ của nó, nàng hiểu nó không nói đùa. Quá bất ngờ nên nàng lúng túng và không biết nói sao cho nó hiểu, dù rằng đó là điều nàng mong ước bấy lâu nay. Nàng đã mỏi mòn chờ đợi câu hỏi này nhưng lại không thể gật đầu đồng ý ngay được. Hơn nữa, nàng còn phải hỏi ý kiến của gia đình. Ánh mắt nàng long lanh niềm vui sướng nhưng nét băn khoăn hiện rõ trên gương mặt nàng.
Ðôi môi nàng run run như nói không ra lời:
- Chắc… chắc không… được đâu…
- Châu không bằng lòng hả?
Nàng vội vàng lắc đầu như sợ nó hiểu lầm.
- Không phải… với Châu thì … nhưng mà còn gia đình, Châu sợ ở nhà không đồng ý.
- Châu về thưa lại với ba-má xem sao? Ở nhà, ba thương Châu lắm mà, chẳng lẽ ba lại không chấp thuận!
Nàng nhỏ nhẹ:
- Ðể Châu về thưa lại với ba. Còn bố Thanh thì sao?
- Thanh đã thưa chuyện với bố rồi. Châu cứ về hỏi ý kiến ở nhà. Nếu gia đình Châu không phản đối thì bên nhà Thanh sẽ đến để bàn chuyện cưới hỏi.
Ánh mắt nó nhìn nàng đăm đăm, làm nàng cảm thấy bối rối và quay nhìn ra hồ. Nó thở ra khoan thai, mồi thuốc hút. Cả hai cùng yên lặng, không nói gì thêm. Ðôi mắt nàng nhìn ra hồ nhưng lòng nàng lại suy nghĩ về điều nó mới đề cập. Nó đọc được niềm vui và nỗi lo trong ánh mắt nàng. Nàng vui vì sắp được ở bên cạnh nó suốt đời, nàng lo vì sắp phải rời xa mái ấm gia đình để đối diện với những khó khăn trong cuộc sống lứa đôi. Nó muốn ôm vai nàng để chia sẻ những băn khoăn đó, để lấp đi cái trống vắng và sự ngăn cách giữa nó với nàng thì vừa lúc Huyền với Duyên trở lại chỗ ngồi.
Nó hỏi (một câu ngốc nghếch khác):
- Hai bạn không ngồi uống nước mà đi đâu vậy?
- À! Tụi này đi lòng vòng ngắm cảnh. Duyên trả lời
- Dạo này có gì lạ không? Huyền hỏi
Nó nhìn nàng rồi trả lời Huyền:
- Thường thôi. Nhưng thỉnh thoảng, có người “làm mưa cho ướt đất”.
Nàng lườm nó rồi lặng yên vì nàng còn bận tâm suy nghĩ về chuyện cưới hỏi, chứ mọi khi thì nàng chẳng để cho nó “tác oai tác quái”.
- Huyền đâu có thấy ướt đất đâu! Chỉ thấy ướt chăn ướt gối thôi.
Huyền nháy mắt, phụ họa với nó rồi mỉm cười trêu ghẹo nàng.
Nàng chồm tới, véo vào cánh tay Huyền.
- Mày…
Tuy chẳng thấm tháp gì nhưng Huyền cũng giả bộ đau.
- Úi da…
Nó mỉm cười, hỏi:
- Huyền bị kiến cắn hả?
Duyên nãy giờ lặng yên theo dõi “cuộc thư hùng” bỗng nhiên phụ họa tấn công nàng:
- Không phải. Nó bị “chuột cắn”.
Duyên với Huyền nhìn nhau và cười khúc khích.
Ðược trớn, nó tung thêm một “chiêu”:
- Ờ! Thanh cũng bị “chuột” cắn rỉ rả, gần hết trái tim rồi.
Những tiếng cười lại vang lên, tan vào trong nắng…
Nó gõ nhẹ lên cánh cửa và không phải đợi lâu.
- Chào bác ạ… Nó cúi đầu chào ba-má nàng trong lúc người lớn chào hỏi nhau.
- Chào bác…
- Chào các bác, chào anh chị. Dạ mời vào…
- Mời các bác ngồi…
Mời khách xong, ba nàng gọi:
- Châu ơi.
Nàng ở nhà trong, đáp vọng ra:
- Dạ.
- Rót nước mời khách, con.
- Dạ…
Người đàn bà (quan hệ với gia đình nó như thế nào, nó không biết rõ, chỉ quen gọi bằng thím từ thuở nhỏ) giới thiệu:
- Thưa hai bác. Ðây là bố của cháu Thanh. Ðây là “nhà-em”, cháu Thanh gọi bằng chú. Và đây là anh-chị-cả của cháu Thanh.
Ba nàng lịch thiệp, đứng dậy và bắt tay từng người. Ba nàng và người chú của nó vốn đã biết nhau từ trước (khi ba nàng còn làm việc tại tòa tỉnh) nên không khí trở nên thân mật hơn.
Người thím tươi cười vào chuyện:
- Hôm nay, chúng em đến để thưa với các bác về chuyện của hai cháu Thanh và Châu. Chắc các bác cũng đã biết. Chúng em xin được biết qua ý kiến của hai bác và gia đình ạ?
- Dạ. Các cháu, chúng nó thương yêu nhau thì cho chúng lấy nhau. Chứ gia đình chúng tôi không cấm cản gì.
Người chú hỏi thêm:
- Vậy theo ý các bác thì có phải làm lễ hỏi trước không ạ?
- Chúng tôi cũng không muốn tổ chức rườm rà. Thời buổi này, càng đơn giản càng tốt. Cốt là làm sao cho hai cháu, sau này chúng nó được hạnh phúc…
Nàng bưng khay nước ra. Nó cầm lấy từ tay nàng rồi đặt xuống bàn.
- Thưa các bác, cháu nó đấy ạ. Ba của nàng nói
Nàng lí nhí, cúi đầu chào mọi người.
- Chào các bác ạ, chào anh chị…
Người thím pha trò:
- Chào “chồng sắp cưới” nữa chứ.
Nàng mắc cỡ, bẽn lẽn đi vào trong.
Ba nàng rót nước mời mọi người rồi nói tiếp:
- Theo ý chúng tôi thì làm lễ hỏi và lễ cưới cùng lúc cho giản tiện.
Chúng tôi cũng chẳng đòi hỏi gì nhiều, chỉ xin ít trầu cau và bánh trái để làm lễ gia tiên.
Bố của nó vốn ít nói nhưng cũng góp chuyện:
- Vâng. Thế thì tốt quá. Chúng tôi cũng không muốn rình rang.
Người thím hỏi:
- À! Thế còn ngày cưới, các bác định như thế nào ạ?
- Việc đó thì chúng tôi để cho hai cháu quyết định. Nhân thể, chúng tôi cũng xin có đôi lời…
Ba nàng ngừng lại rồi chậm rãi nói tiếp:
- Trước sau gì thì cháu, nó cũng về làm dâu nhà bác. Cháu, nó cũng còn dại lắm, nếu có gì thì xin bác thương nó như con mà dạy bảo thêm…
Người thím đỡ lời:
- Các bác yên tâm, “dâu thảo hơn con gái, rể hiền hơn con trai”. Hơn nữa, thấy cháu cũng hiền ngoan, chắc không có gì để các bác bận tâm.
Nó ngồi yên, lắng nghe người lớn nói chuyện. Mọi việc đều tốt đẹp, chỉ còn chọn “ngày lành tháng tốt” để ra mắt hai họ…
Người đàn ông, tổi độ sáu-mươi, sửa lại cặp kính lão cho ngay với tầm mắt và lên tiếng:
- Mời bà và cậu ngồi.
Người thím lịch sự cười xã giao rồi ngồi xuống ghế, nói:
- Cảm ơn ông. Nhờ ông xem cho cháu-nó một quẻ.
Người đàn ông nhìn nó, hỏi:
- Bà muốn xem cho cậu-nhà về gia đạo hay việc làm ăn buôn bán?
Người thím chúm chím cười, trả lời:
- Cháu-nó sắp cưới vợ. Nhờ ông xem hộ ngày nào tốt.
- À! Ra thế…
Ông thầy-bói gục gặc rồi nhìn nó và hỏi tiếp:
- Cậu tuổi gì?
- Dạ, tuổi Tuất ạ. Nó đáp
- Còn cô ấy?
- Dạ thưa… tuổi Tý.
Ông thầy-bói lẩm nhẩm, đếm trên đầu ngón tay rồi nói:
- Cậu, Mâu-Tuất. Còn cô ấy, Canh-Tý. Hai tuổi này không khắc nhau thế là tốt rồi. Ðể xem nào…
Ông bỏ ngang câu nói và lật quyển sách bói, mò mẫm một lúc rồi nói tiếp:
- Tháng tốt thì có tháng sáu, ngày tốt thì có mồng tám… hai mươi và hai mươi sáu…
Người thím ngắt lời:
- Ông xem có tháng nào gần hơn không? Các cụ nói, cưới vợ thì cưới liền tay.
Ông thầy-bói nhíu mày như để suy nghĩ câu trả lời.
- Gần hơn thì có tháng tư… nhưng không tốt lắm.
Nói xong, ông ta kéo cái đèn dầu lại gần và vặn bấc đèn lên thêm một chút để soi cuốn sách bói tử-vi.
- Tháng tư thì có hai ngày, mồng mười và hai mươi tư.
Ông thầy-bói trả lời và gấp quyển sách lại rồi vấn thuốc lào, cho vào ống điếu.
- Bà và cậu uống nước.
Mời xong, ông xé một mảnh giấy báo, mồi lửa từ cái đèn dầu và hút một hơi thuốc dài. Nước trong ống điếu chuyển động, kêu ro ro như một nhạc khí dị kỳ. Ông cầm ly nước trà, uống một ngụm rồi nhả khói ra thong thả. Gian phòng nhỏ lụp sụp trở nên huyền ảo trong khói thuốc mù mịt và ánh sáng lờ mờ, khi tỏ khi lu của cái đèn sắp cạn dầu.
Ông thầy-bói uống cạn ly nước rồi nhìn nó, nói:
- Cậu đưa tay, tôi xem…
Nó chìa cả hai bàn tay, đặt ngay ngắn trên mặt bàn.
- Vài năm nữa thì bà khỏi phải lo. Bàn tay với cái mũi cậu này “hái” ra tiền đây…
Người thím mỉm cười, ngắt lời:
- Tôi là thím của cháu. Chị tôi ở bên Mỹ.
- À! Ra thế… Ông thầy-bói gật gù
- Cháu-nó cũng muốn qua với mẹ. Ông xem có đường đi không?
Ông thầy-bói cầm bàn tay nó, nhìn qua loa rồi nói:
- Bàn tay này có đường đi đây.
Người thím như còn khúc mắc nên nói thêm:
- Thế nhưng cháu-nó lại sắp cưới vợ…
Ông thầy-bói ngắt lời:
- Ấy! Nhiều khi lấy vợ rồi mới đi được. Qua sông thì cần bè, đi xa thì cần bạn. Nhiều người phải lấy vợ, lấy chồng rồi mới đi trót lọt được đấy chứ… Mà số cậu này không chừng rồi hai vợ cũng nên. Mặt-mày sáng sủa, đẹp trai lại có số đào hoa.
Ông thầy-bói cầm cỗ bài, đưa cho nó và nói:
- Cậu xóc bảy cái rồi chọn ra hai lá, một lá tay phải và một lá tay trái.
Nó làm theo lời ông ta một cách hờ hững vì vốn dĩ không tin vào chuyện bói toán. Suốt cuộc bói, nó chỉ nghe mà không chú tâm vào những điều ông thầy-bói đoán. Nó chỉ mong ông nói cho một ngày càng sớm càng tốt để làm lễ cưới. Ðối với nó, mọi điều tốt hay xấu đều ở trong tâm ý của con người. Cái rủi ro của ngày hôm qua có thể sẽ là cái may cho ngày hôm nay và cái hên của ngày hôm nay có thể sẽ là cái trắc trở cho ngày mai như trong câu chuyện “Tái-ông mất ngựa”. Hơn nữa, cuộc đời của mỗi người đều được định trước bằng chính nghiệp quả mà mình đã gieo trồng trong quá khứ…
Sau khi gia đình hội ý, ngày cưới được chọn là 24 - 3 - 84. Trước ngày tân hôn, nó và nàng bận rộn suốt cả tuần vì phải lo trang hoàng và phải đi mượn mỗi nơi mỗi thứ để chuẩn bị cho ngày lễ. Bạn bè nhận được thiệp mời đều ngạc nhiên vì có nghe nó bàn tính gì trước đâu vậy mà “đùng” một cái thì nhận được tin nó báo rằng sắp mất “quyền độc thân” để nhận cái án “chung thân hạnh phúc”. Hôm đó là một ngày thứ bảy đẹp trời. Những thảm nắng xuân vừa trải trên khắp đường phố. Bầu trời trong xanh như cũng muốn chia sẻ niềm vui với nó. Nó có cảm tưởng như mình lớn thêm mấy tuổi. Lễ cưới được cử hành đơn giản, có pháo cưới mừng đôi tân hôn và nghi lễ rước dâu theo tập tục từ những thế hệ trước. Nó và nàng như hai con rối, chỉ biết làm theo sự chỉ dẫn của mọi người. Nét mặt nàng giữ nghiêm trang cho đúng với lễ giáo (phần mệt mỏi vì lo lắng suốt cả tuần) nên không thấy nàng cười, nàng cũng chẳng khóc như bao cô gái khác trong ngày vu quy. Hàng xóm xúm-xít trước cửa nhà để xem rồi trầm trồ khen cô dâu đẹp và xứng đôi với chú rể. Sau phần nghi thức, mọi người chung vui bằng buổi tiệc trà thân mật rồi đến phần rước dâu. Nó và nàng lại một lần nữa quỳ lạy trước bàn thờ gia tiên (những người mà nó và nàng chưa bao giờ và sẽ chẳng bao giờ được gặp mặt) để chứng giám cho cuộc hôn phối. Sau phần nghi lễ, nó và nàng cũng không có thời giờ để nghỉ ngơi vì phải sửa soạn cho buổi tiệc rượu. Buổi trưa, đãi tiệc họ hàng hai bên và những người lớn tuổi, quen biết với hai họ nhà trai và nhà gái. Buổi chiều, đãi tiệc bạn bè của nó và nàng. Cả ngày, nó và nàng không ăn được nhiều dù rằng có biết bao nhiêu thức ngon. Tối đó, nó phải dắt nàng đi ăn phở cho lại sức và cũng để mừng cho ngày thành hôn. Cả hai như vừa trút đi sự hồi hộp và lo lắng (như hai thí-sinh sau ngày thi tốt nghiệp) nên nói cười huyên thuyên.
“Ðêm nay mới thật là đêm…”, đêm đầu tiên mà nó với nàng ru nhau vào mộng…
Ngày vui nào rồi cũng qua, cuộc vui nào rồi cũng tàn… Ngày tháng trôi qua lặng lẽ, thấm thoắt đã mấy tháng từ ngày lấy nhau…
Nàng ngả đầu trên ngực nó và ôm thật sát như muốn tận hưởng cho hết cái hơi ấm dị kỳ tỏa ra ở thân thể nó sau những lần chăn gối.
Bàn tay nàng mân mê những vùng da thịt vẫn còn hơi ấm. Mái tóc dài đã cắt ngắn, làm nàng trở nên chững chạc hơn. Nét ngây thơ của cô thiếu nữ năm nào đã không còn, nàng bây giờ đã là người thiếu phụ tinh nghịch và biết ân ái đúng với nghĩa của nó. Vợ chồng đã quen hơi như câu vè trong bài “Lý chim quyên”. Nó chồm người lên, với lấy điếu thuốc rồi bật diêm và mồi thuốc. Ánh sáng từ chiếc que diêm tỏa ra vàng vọt. Nàng ngước nhìn đốm lửa cháy lập lòe với sự thích thú nên nó để que diêm cháy tiếp mà không thổi tắt. Trong đôi mắt nàng lóng lánh hai vết sáng chập chờn.
- Châu có nhớ truyện “Cô bé bán diêm” không? Nó hỏi nhỏ
Nàng gật đầu rồi nói:
- Mỗi que diêm của cô bé là một giấc mơ. Nếu phải chết, Châu cũng mong được chết như cô bé ấy, một cái chết êm đềm đầy mơ ước hồn nhiên.
- Thôi đi “cô-bé” ạ. Chết rồi bỏ anh lại cho ai?
- Còn khuya á! Em mà chết, em sẽ mang anh theo để còn nhõng nhẽo. Mà thôi, anh biết em đang mơ gì không?
- Mơ gì?
- Mơ mình có con.
- Em liệu cưu mang nổi không?
- Cưu mang thì được thôi, chỉ sợ lúc sanh… nghe nói đau lắm.
- Ừ. Vậy mà ngày xưa, “ông-bà” mình có sợ đâu. Bởi vậy, mới có câu “đông con là nhà có phúc”.
- Diêm cháy gần hết rồi kìa, coi chừng phỏng…
Nàng chồm lên định thổi tắt nhưng nó cản lại rồi lấy que diêm khác và châm tiếp lửa. Mùi diêm-sinh cháy xông lên dìu dịu.
Nàng nói thêm:
- Nếu có con, em thích một đứa con trai giống anh như đúc vậy.
Nó giả vờ phụng phịu:
- Thôi, không được đâu.
Nàng nhõng nhẽo:
- Sao lại không được?
- Tại vì… có nó rồi em sẽ hết yêu anh.
Nàng đấm nhẹ lên ngực nó.
- Ưm… ưm… ghét…
- Úi da…
Nàng ngừng tay, hỏi:
- Ðau hả?
- Ừ… nhột lắm… Nó múm mím cười
Nàng ngùng ngằng giãy nảy rồi tiếp tục đấm nhẹ lên ngực nó.
- Ưm… ưm… cho chết nè…
Nó trêu nàng:
- Anh mà chết thì em trở thành góa phụ đó…
Nói xong, nó thả que diêm vào cái gạt tàn thuốc và dụi thuốc. Căn phòng lại chìm trong ánh sáng mờ nhạt của ngọn đèn ngủ màu đỏ được đúc bằng nhựa cứng. Khói thuốc chập chờn như sương đêm làm căn phòng giống như một động tiên. Nó nâng nàng lên để áp mặt vào ngực nàng. Da nàng mịn và mát như một dòng suối. Nàng để nó tắm mình trong hoan lạc rồi lùa tay vào mái tóc nó và ôm chặt hơn. Ngọn sóng tình lại dâng lên cao ngút…
Nó đặt nàng nằm xuống, chiêm ngưỡng rồi hỏi lại:
- Châu biết gì không?
- Biết gì?
Nó ra điều kiện:
- Thanh nói ra, Châu không được giận nhe.
Nàng lưỡng lự:
- Ừ, thì không giận.
- Phải hứa mới được.
- Hứa làm sao?
- Cầm tay Thanh đặt lên ngực Châu rồi nói “em hứa”.
- Ưm… Cái gì mà khôn vậy…
Nó giả vờ giận lẩy:
- Không chịu thì thôi vậy.
- Ơ… Thôi được rồi.
Nói xong, nàng làm theo ý nó rồi tiếp:
- Xong rồi. Thanh nói đi.
- Châu… Châu…
Nàng nôn nóng:
- Châu làm sao? Nói lẹ lên đi.
- Châu… đẹp lắm.
- Thôi đi “anh”, đừng có nịnh. “Người ta” không có gì để cho nữa đâu.
- Có chứ…
- Có gì?
- Cho anh một đứa con.
- Ưm… mấy hôm nay, Châu thấy là lạ trong người.
- Hay là mình sắp có con cũng nên. Ðể Thanh coi xem.
Nói xong, nó đặt tay lên bụng nàng rồi áp tai xuống, giả vờ lắng nghe.
- Ý! Nó đạp…
- Thôi đi, đừng có xạo. Nếu có thì nó chỉ là cái trứng mới thụ tinh thôi, chứ làm gì đã có hình hài mà đạp.
Yên lặng giây lát rồi nàng nói tiếp:
- Mà cũng chưa chắc nữa, bác sĩ nói là Châu khó có thai lắm. Lỡ như mình không có con được thì sao?
- Thì mình khỏi phải “kế hoạch hóa gia đình” chứ sao.
- Ðừng có đùa nữa mà. Người ta nói chuyện đàng hoàng. Hay là mình xin con về nuôi nhe?
- Ai mà chịu đem con mình cho người khác? Mà thôi, để vài năm nữa nếu không có con hẵng hay. Bây giờ, nuôi hai cái miệng còn chưa xong nữa là… À! Mà nếu như mình có con, anh không cho nó bú sữa mẹ đâu.
- Bộ uống sữa hộp tốt hơn hả? Nàng ngây thơ hỏi
- Không phải… Tại vì… “sữa mẹ” của nó để… để nuôi anh.
Nàng đấm thình thịch lên lưng nó để “trả thù”.
- Ưm… Ghét ghê… Ưm…
Các chấm tròn đủ màu ngộ nghĩnh trên những quân cờ domino như có một ma lực, đã hút nó dính vào cuộc đỏ đen mãi từ trưa đến giờ và càng đánh, nó lại càng không muốn nghỉ. Nó thua gần cạn túi nên cứ muốn gỡ nhưng đánh nhiều thì thua nhiều vì không còn tỉnh táo để suy tính. Nó cầm quân cờ, tính toán rồi đập xuống mặt bàn như để xua đuổi cái vận đen.
- Ðóng!
Nói xong, nó lật hai quân cờ trên tay, để xuống bàn rồi nói tiếp:
- Chín điểm.
Thống cụt ngồi đối diện với nó, từ tốn lật ba quân cờ lên và nói:
- Tám điểm.
Nó tức tối nhưng cũng chẳng làm được gì khác hơn là móc túi, lấy tiền chung cho mọi người nhưng số tiền còn lại chỉ đủ cho hai người. Nó thảy tiền ra bàn rồi nói:
- Còn có chừng đó. Có ai cho mượn thì đánh tiếp.
Mọi người nhìn nó ái ngại, không phải vì sợ nó quỵt mà vì ai cũng muốn nghỉ. Hơn nữa, trời cũng đã tối.
Hùng ngồi cạnh nó, nói như khuyên:
- Mày đang đen, càng đánh lại càng thua. Nghỉ đi, hôm khác chơi. Bây giờ tối rồi.
- Thôi, nghỉ đi. Bình phụ họa
Mọi người đồng ý nghỉ và “vãn tuồng”. Nó thất thểu ra về, vừa chán nản vừa lo. Chán nản vì thua hết tiền và lo vì không biết nói năng thế nào với nàng. “Cờ bạc là bác thằng bần”, câu tục-ngữ mà nó nghe mọi người thường nói để chê bai kẻ đam mê cờ bạc, bây giờ mới thấm thía. Nó tự trách mình và cảm thấy ăn năn…
Nó kéo cánh cửa sắt thật nhẹ để tránh gây tiếng động nhưng cái cửa cũ kỹ, lâu ngày không cho dầu nhớt, vẫn kêu ken két. Cả nhà chắc đã đi ngủ. Nó lách vào rồi khóa lại cẩn thận và rón rén lên phòng. Căn phòng vẫn để đèn, nó nghe thật rõ tiếng tích tắc của cái đồng hồ để bàn (chạy bằng giây thiều) và tiếng nức nở của nàng. Nó nhè nhẹ đặt lưng xuống giường và cố tránh để không đụng vào nàng nhưng cái giường bé tí nên nó vẫn chạm vào nàng (mặc dù nàng đã có ý nằm thật sát vào góc tường).
Nàng bực tức, vừa khóc vừa gắt gỏng:
- Ðừng có đụng “người ta”.
Nói xong, nàng tiếp tục khóc trong ấm ức.
- Thôi. Thanh xin lỗi mà… Nó nhỏ nhẹ
Câu nói như châm thêm dầu vào lửa, làm bao nhiêu buồn giận mà nàng giữ trong lòng như một ấm nước sôi đến lúc phải trào ra.
Giọng nàng gay gắt:
- Anh xin lỗi mà có biết lỗi không?
- Thôi mà, Thanh hứa sẽ không bao giờ đi chơi nữa.
Nàng không ngăn được cơn giận nên có vẻ to tiếng:
- Ừ. Ðể coi anh giữ được bao lâu?
Nó nói như năn nỉ:
- Nho nhỏ thôi. Hàng xóm, người ta nghe được bây giờ…
Yên lặng giây lát, nó nhẹ cầm tay nàng và nói tiếp:
- Thanh xin lỗi. “Người ta” hứa thật mà…
Nàng vùng vằng và hất tay nó ra nhưng không khóc lớn nữa (có lẽ nàng cũng sợ gia đình và hàng xóm biết chuyện. Vợ chồng mất lòng nhau thì có gì mà hay ho, người ngoài biết được lại dèm pha thêm chứ ích lợi gì). Nó hiểu rằng có năn nỉ bao nhiêu thì nàng cũng chẳng nguôi giận ngay được nên với tay tắt đèn và lặng yên nghe nàng thổn thức. Nó cảm thấy đau nhói trong lòng và hối hận về lỗi lầm đã gây ra rồi tự hứa sẽ không bao giờ để tình trạng này tái diễn…
Suốt cả tuần, vợ chồng không nói với nhau câu nào. Nàng thì quay mặt vào tường khi ngủ. Nó thường giả vờ say ngủ rồi trở mình và ôm lấy nàng nhưng lần nào nàng cũng đẩy tay nó ra. Có khi, nàng lấy chăn tấn vào giữa như một bức tường ngăn cách. Nó thấy thương có cái tính trẻ con của nàng. Một hôm, nó nghĩ rằng nàng đã nguôi giận nên cầm lấy bàn tay nàng để xin lỗi. Nàng vùng vằng lấy lệ và hất tay nó ra, nó lại ôm nàng và nàng lại vùng vằng nhưng cánh tay nó như một gọng kìm xiết chặt lấy nàng.
- Thôi mà… “Người ta” biết “tội” rồi, cho xin đi…
Nàng lặng yên nghe ngóng…
- Bộ tính giận nhau cả đời hả? Nó hỏi
Nàng gay gắt một cách nũng nịu:
- Ừ đó! Ai biểu…
- Ai biểu lấy “người ta” làm chi rồi “bi-dờ” giận…
Nó xoay nàng lại rồi nhìn nàng, mỉm cười chúm chím.
Nàng cau có một cách dễ thương:
- Cười cái gì mà cười? Nhìn cái mặt…
- Cái mặt làm sao?
- … bắt ghét!
- Thì đâu có ai bắt “mình” phải thương “người ta” đâu.
- Vậy thì để cho “người ta” yên, có được không?
- “Người ta” xin lỗi rồi mà… hay là năn nỉ nhe?
Nàng trề môi:
- Không thèm…
- Hay là “người ta” đền cho “mình” nhe?
Nàng hạch sách:
- Lấy gì mà đền cho “người ta”?
Nó dụ:
- “Mình” nhắm mắt lại đi rồi “người ta” đền cho…
- Thôi đi. Ðừng có khôn, bộ “người ta” không biết sao?
- Thì có khôn “người ta” mới lấy “mình”. Chứ ngu thì…
Nàng không ngờ mình bị rơi vào “diệu kế”.
- Thì sao?
Nó giả vờ ngu ngơ:
- Thì “người ta” đã lấy…
- Lấy ai? Nàng lườm
- Lấy… lấy… “em”.
Nàng dùng hai ngón tay, véo mạnh vào bụng nó.
- Úi da… véo “người ta” đau vậy? Nó giả vờ
- Cho chừa cái tội bỏ vợ đi chơi…
Nó ngắt lời nàng:
- Thôi. Ðừng có “hạch tội” nữa mà, nhưng cái gì anh cũng xin chừa, chỉ có một cái không chừa được…
Hai ngón tay nàng kẹp vào bụng nó trong tư thế sẵn sàng.
- Cái gì mà không chừa được? Nàng tra vấn
Nó nhìn gương mặt quạu quọ của nàng, cố nhịn cười rồi dịu dàng:
- Không chừa được… “em”.
Nàng nguýt:
- Xí! Nhìn cái mặt…
- Cái mặt làm sao? Nó cười tình.
- Không có làm sao hết á…
Nó bóp nhẹ bàn tay nàng rồi đưa lên môi hôn. Nàng lặng yên nhìn nó rồi níu cổ nó và kéo lại gần… Giận hờn có khi như một cơn mưa làm tình yêu tươi mát hơn và nảy sinh những mầm yêu thương mới…
Nó đẩy cái tủ kính nhỏ ra trước cửa nhà để làm nơi bán bánh mì thịt nguội rồi bày những đôi dép và giầy bằng da lên kệ kính.
Nàng cầm đôi giầy nhỏ xíu, ngắm nghía rồi hỏi:
- Mình để lại đôi này nhe?
Nó đọc được ý nghĩ của nàng nên nói:
- Em lo xa quá vậy? Chừng nào có “bé-tí” rồi hẵng hay.
- Nhưng mà thấy tiếc quá…
- Không lẽ đem cất đi cho đến lúc mình có con? Hơn nữa, em thích con trai mà đôi này dành cho con gái.
- Vậy kỳ tới mình kiếm một đôi cho con trai nhe?
- Chắc gì mình có con trai? Ðợi đến lúc đó tha hồ mà mua, muốn mua mấy đôi cũng được.
Nghe nó nói có lý nên nàng không vùng vằng nữa và để đôi giầy lại chỗ cũ. Nó bày đôi cuối cùng lên kệ rồi đi vào trong để lấy bếp than nướng bánh. Nó trở ra thì thấy hai gã công an đứng xớ rớ trước tủ bánh mì.
Nó biết sắp có chuyện nên vội vàng đặt bếp than xuống rồi hỏi:
- Xin lỗi, mấy anh cần gì?
Gã công an không trả lời nó mà nhìn nàng hỏi lại:
- Chị bán hàng ở đây hả?
Nó trả lời thay cho nàng:
- Tôi bán.
Gã nhìn nó chăm chăm, hỏi:
- Anh có giấy phép kinh doanh không?
Nó phịa:
- Tôi đã nộp đơn xin nhưng trên “phường” hẹn tuần tới, cho nên tụi tôi chỉ bán tạm thời “ngoài giờ lao động” để kiếm thêm đôi chút “thu nhập gia đình”.
Gã “đồng chí” nãy giờ đứng “quan sát mặt trận” xen vào:
- Chưa có giấy phép thì chưa được buôn bán.
Nó lý luận “quèn”:
- Nhưng tôi chỉ bán có vài ổ bánh mì chứ có buôn gì đâu?
Gã công an không muốn tranh luận nên chỉ nói thẳng vào vấn đề:
- Chúng tôi không cần biết. Trên nguyên tắc, chúng tôi tịch thu tất cả hiện vật vì sự “làm ăn trái phép”, không có giấy kinh doanh. Là lần đầu nên chúng tôi chỉ cảnh cáo và phạt vạ mười đồng.
Nó biết rằng có tranh luận hay năn nỉ thì chỉ mất thì giờ nên nhìn nàng và gật đầu ra dấu. Nàng lục lọi trong túi áo, lấy tiền ra rồi đếm đủ mười đồng đưa cho gã công an.
Gã nhận tiền và hí hoáy viết tờ giấy phạt rồi đưa cho nó.
Nó nhận tờ giấy phạt và mỉa mai:
- Cám ơn.
Hai gã công an bỏ đi một quãng rồi cười khoái trá.
Nàng bực tức, rủa:
- Hứm! Phạt được người ta chắc khoái lắm? Cái đồ…
Nó an ủi:
- Thôi, chưa bị tịch thu giầy dép là may rồi. Coi như cho không ba ổ bánh mì.
Nàng mỉm cười cảm thông và hỏi:
- Ngày hôm nay “xúi quảy” rồi. Bây giờ, mình dẹp vô hay sao?
- Cứ để bán cho hết mấy ổ bánh mì rồi tính. Giầy dép thì gởi bán cũng được. Trời chẳng thương mình rồi, bán có vài ổ bánh mì cũng không yên.
- Hay là mình đi xin giấy phép? Nàng đề nghị
- Ðâu phải xin là được ngay, hơn nữa có giấy phép thì cũng phải đóng thuế. Mình bán đâu có lời bao nhiêu, đóng thuế chắc cũng vừa đủ. Chẳng thà ở không cho nó khỏe.
Nàng có vẻ như lo lắng:
- Không buôn bán thì lấy gì mà chi tiêu?
- Ðể rồi mình tính cách khác, chứ biết sao bây giờ…
Mấy hôm nay, nó chờ đợi tin tức chuyến đi nên khi đi đâu nó cũng dặn nàng. Ðang ngồi tán doc ở nhà người bạn thì nó nghe tiếng nàng ở cửa vọng vào.
- A! Anh Dũng. Anh Thanh có xuống đây chơi không?
- Ở bên trong á. Có chuyện gì mà có vẻ “khẩn trương” quá vậy?
- Châu cũng không biết. Chị Ngân nói gọi Thanh về có việc.
- Thì vào ngồi chơi một chút. Có vợ chồng Mai Khanh ở trong á.
Nàng từ khước:
- Thôi. Ðể lúc khác…
Không để Dũng phải gọi, nó từ trong đi ra.
- Dạ. Có anh đây. Nó dí dỏm
Nàng khẽ lườm nó.
- Chị Ngân gọi Thanh về kìa.
Nó biết ngay là có tin tức về chuyến đi nên vội vã chào mọi người rồi về cùng nàng.
Ra khỏi cửa, nàng nói nhỏ với nó:
- Chị Ngân biểu kiếm Thanh về để sửa soạn. Ngày mai, xuống Sài-Gòn đi.
- Sao gấp vậy!?
Nàng có vẻ suy tư:
- Mới nhận được điện tín của chị Ngọc. Xuống là đi liền mà mình chưa chuẩn bị gì hết.
- Thì cần vài bộ quần áo cũ là xong chứ có gì.
Nàng đính chính:
- Châu muốn nói về mặt tâm lý chứ bộ.
Nó vấn an:
- Mình có lo lắng thì cũng chẳng giải quyết được gì. “Muốn ăn thì phải lăn vào bếp” đó mà…
- Nhưng mà Châu chưa nói với ba-má…
- Thanh nghĩ rằng mình không nên nói với ba, chỉ sợ ba lo chứ không có ích gì. Mình cho chị Trân biết rồi chỉ nói lại với Ba sau.
Về đến nhà, nó tìm người chị để hỏi thêm về chi tiết.
- Chị Ngọc gọi xuống gấp hả, chị Ngân?
- Ờ. Xuống đó, mày cần tiền thì đến anh Trọng lấy, nếu chưa đi ngay thì mày hỏi chị Ngọc cho con Khai đi theo được không? Có gì thì đánh điện về cho tao hay, nếu được thì vài bữa nữa tao xuống với con Khai.
- Chị Ngọc có nói rõ là ngày mai đi không?
- Tao cũng không biết, trong điện tín chỉ nói là xuống gấp. Hai đứa xuống đó ở đâu?
- Chắc tụi em lại chỗ anh của Châu.
- Nếu xuống đó mà tụi mày chưa đi, cần gì thì cứ lại anh Trọng. Vài hôm nữa, tao xuống tính lại với ảnh sau.
Trở về phòng, nó thấy nàng đang nằm vắt tay lên trán, suy tư.
- Suy nghĩ gì vậy?
Vẻ mặt đăm chiêu, nàng nói:
- Châu thấy lo quá!
Nó nằm xuống cạnh nàng rồi cầm tay nàng và nói:
- Có gì mà phải lo. Chuyện gì đến thì nó đến. Sướng thì cùng hưởng, khổ thì cùng chia. Có lo thì cũng chẳng giải quyết được gì, phải không?
- Lỡ như gặp… Nàng bỏ ngang câu nói
Nó chợt cảm thấy bất an trong lòng, nếu như gặp hải tặc thì sao(?) nhưng nó vội xua đuổi cái ý nghĩ không may đó ra khỏi tâm trí.
Nàng nhìn nó, nói tiếp:
- … chắc Châu chết mất…
- Thanh không để Châu chết một mình đâu, chết thì cùng chết… Mà thôi, đừng nghĩ đến chuyện không may. Mình đâu có làm gì ác đức đâu… À! Tối nay, mình xuống thăm ba-má rồi ghé qua Dũng-Mai chơi và nói mình đi Sài-Gòn lãnh đồ.
Nàng nhẹ gật đầu, tâm trí nàng như vẫn còn bị ám ảnh bởi những điều không may nên ánh mắt nàng mơ màng, lạc vào cõi xa xăm nào đó…
Người thanh niên dẫn đường trạc tuổi nó, vóc dáng lực lưỡng, trước khi ra khỏi nhà, cẩn thận dặn dò:
- Tôi đi trước, anh chị theo sau, nhớ đừng nói chuyện.
Trời chiều nhá nhem, nắng đã tắt và lẫn vào cái không gian tịch mịch của đồng quê. Trên cánh đồng hoang chỉ còn lại những hàng cỏ tranh héo khô vì nắng hạn, lác đác vài căn nhà tranh vách đất như cũng đã bỏ hoang. Nó với nàng đi theo người dẫn đường một cách vất vả vì lối đi lồi lõm và đất chai cứng tưởng như hóa đá. Ði một lúc thì đến con kênh, nước đã cạn gần sát mặt đất. Nó bước xuống ngay lớp sình nên lún sâu gần đến đầu gối. Nó chưa kịp nói cho nàng biết thì nàng đã bước xuống theo rồi mất thăng bằng. Nàng ngả nghiêng sắp té thì nó nắm được bàn tay nàng. Cả hai chới với, nó níu vội lấy một cành cây khô trên bờ nên không bị ngã.
- Cẩn thận, coi chừng té. Ði theo dấu của Thanh. Mệt lắm không?
Nàng khẽ lắc đầu.
Người dẫn dường giục:
- Cứ bước đại đi. Sình cạn không có sao đâu.
Nó nhấc chân, lê từng bước qua vũng sình một cách nặng nề. Qua khỏi con kênh, nó hớt nước để rửa qua loa chân tay. Quần áo dính đầy sình nhớp nhúa. Ði thêm một lúc, người thanh niên dừng lại trước một căn nhà chứa thóc dường như đã bỏ hoang, nằm trơ trọi giữa cánh đồng.
Anh ta gõ mật hiệu lên cánh cửa.
Người bên trong hỏi vọng ra:
- Ai đó?
- “Tư gióng” đây.
Cánh cửa được mở ra, ánh sáng lờ mờ từ ngọn đèn dầu trong góc hắt ra yếu ớt. Trong căn nhà lụp sụp có khoảng ba mươi người, vừa nằm vừa ngồi, choán gần hết cả lối đi. Nó dắt nàng bước vào rồi ngồi xuống cái chỗ trống gần cây cột chống ở giữa nhà.
Nó dựa lưng vào cây cột và nói với nàng:
- Nằm xuống nghỉ một lát đi. Ngả đầu lên đùi Thanh nè.
Nàng nằm xuống, đầu gối co lại vì không đủ chỗ để duỗi chân. Mọi người lặng yên, chờ đợi lệnh di chuyển. Từng toán từ ba đến năm người được đưa vào lẻ tẻ. Thời gian trôi qua nặng nề. Không khí trở nên ngột ngạt vì căn nhà kín mít và đông người, phần vì sự căng thẳng và lo lắng trước chuyến đi. Số người ra đi cũng gần đến năm mươi người, vậy mà vẫn chưa có lệnh “chuyển quân”. Thỉnh thoảng có tiếng lào xào từ những hàng cỏ tranh hay tiếng răng rắc từ những cành cây khô vọng vào, làm mọi người lại một phen nín thở rồi lặng yên nghe ngóng. Những lúc như thế, nhìn mọi người giống như những xác ướp bất động trong một ngôi nhà mồ, đợi đến khi toán gác cửa ở ngoài lên tiếng, mọi người mới tiếp tục bàn tán về chuyến đi. Cánh cửa được mở ra, thanh khí bên ngoài lùa vào nên bớt được phần nào sự ngột ngạt.
Một người trong toán gác cửa hỏi:
- Có ai muốn uống nước không?
Vừa hỏi, anh ta vừa đưa vào xô nước và cái ca. Mọi người truyền tay nhau uống và yêu cầu để cửa mở cho thoáng. Nó bật lửa và mồi thuốc hút, nãy giờ thèm thuốc mà không dám hút vì sợ khói thuốc làm căn nhà thêm ngột ngạt. Nhìn người thanh niên ngồi đối diện, nó truyền điếu thuốc cho anh ta và gợi chuyện.
- Làm một hơi?
Anh ta mỉm cười, từ chối:
- Cám ơn anh. Tôi không hút thuốc.
- Anh đi lần đầu hả? À! Xin lỗi, anh tên gì?
- Tôi là Thông, đi hai chuyến và bị bắt một lần. Còn anh?
- Tôi tên Thanh. Tôi đi hơn mười chuyến rồi, cũng bị bắt một lần, phải đi lao cải mất năm rưỡi. Anh ở Sài-Gòn hả?
Thông gật đầu và nói thêm:
- Nhưng tôi sinh ở Nha-Trang.
Nó kể:
- Hồi nhỏ, mỗi khi đến hè thì anh em tôi được cho về Nha-Trang để “đổi gió”. Có lần tôi xuýt chết đuối khi tắm biển. Vậy mà đã hơn mười năm rồi. Tôi chẳng thể mường tượng ra cái thành phố có vẻ đài-các đó, bây giờ ra sao?
- Anh cũng ở Sài-Gòn? Thông hỏi
- Không. Tôi ở Ðalat, thành phố trầm buồn và thơ mộng như người ta thường nói…
Thông ngắt lời:
- Lúc trước, tôi cũng lên Ðalat học và quen được cô bạn gần chùa Linh-Sơn. Nhà cô ta đối diện với cây xăng gần ngã ba đường. Anh có ở gần đó không?
- Tôi ở ngay khu Hòa-Bình, gần chợ.
- Vậy là anh ở gần phở Tùng với cà-phê Tùng?
- Tôi ở sát tiệm phở, ông chủ tiệm phở Tùng là anh bà con với tôi. Anh thường đến đó ăn hay sao?
- Thỉnh thoảng thôi. Hồi trước có tiệm cơm Tầu, Ðông-Hải, tôi thường đến ăn điểm tâm ở đó. Chiều tối thì vào cà-phê Tùng nghe nhạc. À! Cái tiệm sách Liên-Thanh, bây giờ còn bán sách không?
- Mọi thứ đều đổi thay cả rồi. Bây giờ chỉ là những cửa hàng quốc doanh. Ðến tối, vào khoảng bảy-tám giờ là đường phố vắng tanh, không như lúc trước.
Ðôi mắt mơ màng, Thông nói:
- Dạo đó, vào cuối tuần tôi thích đi lang thang quanh hồ hay lên ngọn đồi gần đó ngắm mây nước, trời trăng.
- Anh cũng lãng mạn ghê há!
- Tuổi mộng mơ mà, với lại Ðalat thơ mộng quá, cho dù không có tâm hồn nghệ sĩ thì người ta cũng bị “lây” phần nào. À! Ở trong chợ, ngay chân cầu thang có tiệm giò chả…(?)
- Bắc Hương, phải không?
- A! Ðúng rồi. Ở đó, có cô bán hàng lúc nào cũng cười thật hồn nhiên…
Nó định nói xen vào rằng người đó là chị của mình nhưng lại phịa:
- Ðó là chị của bạn tôi.
- Nàng nằm nghe mẩu đối thoại, biết rằng nó “xạo” nên nhìn nó mỉm cười.
- Tôi thích nhất món bánh dầy kẹp với chả chiên nóng. Mỗi lần cắn vào là chất mỡ ứa ra béo ngậy, trộn lẫn vào cái vị vừa bùi vừa thơm của bánh, ngon không thể tưởng. Nghĩ đến mà tôi vẫn còn thèm.
Thông ngừng nói giây lát rồi chuyển đề tài:
- Em gái của anh đó hả?
Nó nghĩ, có lẽ vì cả hai không đeo nhẫn cưới nên Thông mới hỏi như thế (cặp nhẫn cưới đã được tháo ra và khâu vào vạt áo của nàng).
- Anh thấy giống tôi không? Nó mỉm cười, hỏi lại
Nàng nghe hỏi đến mình nên quay đầu lại nhìn, theo phản ứng tự nhiên. Thông mỉm cười xã giao với nàng, quên cả trả lời câu nó hỏi.
- Con gái Ðalat nhìn là biết ngay, da trắng, má hồng…
Thông chưa nói hết câu thì bên ngoài có tiếng lao xao và có lệnh “chuyển quân”. Mọi người lục tục đứng dậy, vừa hớn hở vừa hồi hộp. Một người trong nhóm tổ chức nói nói như ra lệnh:
- Tất cả đi hàng một theo tôi.
Mọi người lần lượt đi ra, theo bén gót người dẫn đường. Trời tối đen. Ánh trăng thượng tuần bị mây che khuất, soi chẳng rõ bóng đoàn người vừa đi vừa chạy trong đêm, chập chờn như những bóng ma ở cõi âm nào đó. Qua đoạn đường dài, vừa lội sình vừa luồn lách trong đám cỏ tranh, có khi phải chạy trên đường ruộng khô cằn và gồ ghề, có khi phải bò lom khom dưới con kênh nước cạn. Cả tiếng sau, đoàn người mới tới được điểm hẹn ở ven sông. Mọi người tuần tự lên ghe. Hai chiếc ghe chỉ vừa đủ chỗ cho mọi người ngồi sát nhau. Nó đỡ nàng lên ghe rồi leo lên sau cùng.
Ðặt gói hành trang xuống thành ghe, nó hỏi nàng:
- Mệt lắm không?
Nàng thở ra một hơi dài như để trút đi nỗi nhọc nhằn.
- Chút… chút.
Nó ngồi xuống với nàng, định dựa lưng vào thành ghe để nghỉ ngơi thì một loạt súng rít lên từ bụi cây gần đó, vết đạn bay lên không trung sáng lóa từng vệt dài. Phản ứng tự nhiên, nó ôm chầm lấy nàng để che chở như con gà xòe đôi cánh để bảo vệ đàn gà con trước nanh vuốt của diều hâu.
Nó ôm nàng chặt trong vòng tay và trấn an:
- Ðừng có sợ.
Chiếc ghe trong bụi cây như đã phục sẵn từ lâu, bây giờ mới nổ máy, chạy ra. Một gã trong toán du kích cầm đèn-pin, vừa soi vừa quát tháo:
- Ngồi yên hết nghe chưa. Ðứa nào loạng quạng, tao bắn bỏ mạng.
Mọi người hoảng sợ nhưng ai nấy đều ngồi yên, không dám lộn xộn. Một gã, có vẻ là “xếp”, ra lệnh cho “đàn em”:
- Hai đứa mày leo qua bên đó, kiểm soát phía đầu ghe. Ðứa nào rục rịch, tụi mày cứ bắn bỏ cho tao.
Nghe theo lệnh, hai tên “đàn em” leo qua rồi đứng trước mũi ghe, lăm lăm khẩu súng trong tay như chực chờ nhả đạn.
- Mấy đứa đàn ông để tay lên đầu hết coi… Thằng kia! Lục lọi gì đó? Giơ tay lên coi.
Gã vừa hét vừa lên đạn kêu răm rắp rồi chĩa súng vào người thanh niên, làm anh ta vội vàng đưa hai tay lên trời. Hai cái đèn-pin quét lia lịa vào toán người vượt biên. Mấy gã du kích cột hai chiếc ghe vượt biên vào sau ghe của họ (bằng những sợi dây thừng) và chuẩn bị kéo đi.
Một gã ra lệnh:
- Ðàn ông đứng dậy từng người một, đi qua ghe kia.
Vài người đứng lên và định xách theo đồ đạc của mình thì bị gã du-kích quát.
- Ðể đồ lại hết.
- Cái này chỉ có quần áo…
Người đàn ông chưa dứt lời thì đã bị cắt ngang bằng một tiếng hét:
- Không cầm theo gì cả, muốn chết hả? Ðồ phản quốc! Ðịnh theo chân Ðế quốc hả? Lần này thì cho chúng mày đi “xanh da… bò” cả lũ…
Ðàn ông và thanh niên lần lượt nhảy qua chiếc ghe mà gã du kích vừa chỉ định. Lợi dụng cơ hội, hai người đàn ông nhảy ùm xuống sông để tìm đường thoát thân trong may rủi.
- RMNd (chửi thề)! Nhảy hả?
Gã “đàn anh” văng tục rồi nói như ra lệnh:
- Tụi mày bắn bỏ cho tao.
Hai tên “đàn em” chĩa súng xuống sông rồi bắn loạn xạ. Trời tối nên không thấy rõ, chẳng ai biết số phần của hai nhưng vừa “liều mạng” ra sao.
Gã “đàn anh” lại ra lệnh cho một tên “đàn em”:
- Mày đốt cái đèn dầu lên coi.
Nó nhìn nàng và gượng cười để vấn an.
- Ðừng có sợ nghe. Ðàn bà với con gái, chắc là nó lấy tiền rồi cho về. Còn Thanh, nhiều lắm thì “ba năm” nữa thôi.
Nói xong, nó bóp nhẹ bàn tay nàng rồi nhảy chiếc ghe kia với những người đàn ông còn lại. Hai chiếc ghe bị kéo về trạm du kích gần đó. Mọi người bị giải lên trạm và ngồi thành hai hàng, ngay tại miếng đất trống ngoài sân. Biết rằng mấy gã du kích chỉ muốn làm tiền nên mọi người bàn tán rồi thương lượng với gã trạm trưởng. Giá cả được định rất mau chóng, một “chỉ vàng” cho một người. Những người chịu đưa vàng được tách riêng ra và sau đó, được mấy gã du kích dẫn ra lại đường cái, để đón xe về lại thành phố. Mặc dù được thả về nhưng ai nấy cũng lo âu vì sợ những trạm du kích khác phát hiện sẽ bắt lại. Toán người được thả về lúc đó không khác nào những tù nhân vượt ngục, chia ra thành từng nhóm nhỏ. Gã du kích dẫn đường cách đây mấy tiếng còn quát tháo, bây giờ đã nhỏ nhẹ.
- Trời đất ơi! Chạy trốn mà đi chậm như vậy, bị bắt lại thì ráng chịu à. Chạy lè lẹ lên chút coi…
Từ lúc ra đi đến lúc bị bắt, nó không cảm thấy sợ và hoang mang như lúc này. Mọi người chạy theo gã du kích, muốn hụt hơi. Cả đêm qua không ngủ nhưng nó vẫn không cảm thấy buồn ngủ chút nào, thần kinh căng thẳng và tê cứng vì lo sợ. Sau mấy tiếng vất vả vừa băng sông vừa chạy bộ, nhóm của nó mới ra đến đường cái.
- Mấy anh chị đi thẳng ra phía trước, qua khỏi bờ ruộng là đường cái rồi đón xe về. Nhớ đừng có chụm lại, đi xa ra một khúc hãy đón xe…
Gã du kích dặn xong rồi biến mất như một bóng ma. Chân trời cũng vừa rạng sáng. Trời còn tờ mờ không thấy rõ lối đi nên nàng vấp ngã khi băng qua một bờ kênh.
Nó nâng nàng dậy và hỏi:
- Ðau lắm không? Ði không nổi thì Thanh cõng cho.
Nàng cầm tay nó và gượng đứng dậy. Nỗi sợ làm nàng quên cả đau.
- Không sao đâu. Cũng gần tới đường cái rồi.
- Chắc quần áo dính đầy sình, Châu thay bộ đồ khác đi.
Nàng lấy bộ đồ bà-ba (xin được của một người đi chung chuyến vì giỏ hành trang đã bị lạc trong lúc lộn xộn) vừa thay vừa hỏi:
- Còn Thanh thì sao?
- Thanh mặc cái quần đùi cũng được. Lát nữa, lên xe cứ giả vờ như mình không quen nhau. Nếu như đến trạm kiểm soát có bị công an bắt thì chỉ mình Thanh bị thôi.
Nó căn dặn nàng rồi cởi cái quần dài dính đầy sình, bỏ lại:
- Không biết mấy giờ rồi? Nàng hỏi trong lúc thay đồ
Nó nhìn thấy hai ánh đèn xe từ xa chập chờn, lúc ẩn lúc hiện sau những hàng cây bên hai ven đường.
- Chắc khoảng năm giờ. Ngoài đường có xe chạy rồi. Mình đi lẹ một chút chắc đón được xe. Nó giục nàng
Trời chưa sáng hẳn, vậy mà trên xe cũng đã chật kín người. Lên xe, ai nấy cũng nhìn nó vì cái áo dính đầy sình. Nó cố ra vẻ bình thản như không có chuyện gì rồi lấy tiền, đưa cho người phụ xe. Nó để ý, thấy anh ta thối lại tiền cho nàng mà “vờ” hẳn với nó. Biết thân phận nên nó chẳng dám hó hé gì. Nó chỉ sợ khi đến trạm kiểm soát mà công an ra hỏi giấy tờ thì coi như “tiêu”. May sao, hôm đó nó không bị “sao Thái-Bạch chiếu” nên trở về an toàn. Về đến nhà, sau khi tắm rửa sạch sẽ xong, nó và nàng ngủ một giấc dài…
Nó bật lửa, mồi thuốc hút và hồi tưởng lại chuyến đi mà thấy thương nàng vô vàn. Nó nhìn lên bầu trời đầy sao đêm lấp lánh rồi suy nghĩ mông lung. Ở trong không gian vô tận đó, có không biết bao nhiêu là tinh thể. Khoa học đang ra sức khám phá các hành tinh trong vũ trụ và đồng thời phóng đi các tín hiệu từ các vệ tinh nhân tạo, với hy vọng tìm thấy một sự sống tương tự như ở địa cầu nhưng chưa vượt ra khỏi thái dương hệ được. Làm thế nào mà cái hữu hạn lại có thể với tới cái vô cùng(!). Vậy mà, không hiểu tại sao nó vẫn tin rằng trong dải ngân hà trùng trùng điệp điệp đó, chắc chắn có một sự sống tương tự như ở trái đất này. Trái đất này so với không gian vô tận kia, chỉ là một hạt cát trong sa mạc. Trong không gian vô cùng tận đó, có những vì sao đã tắt từ trước cả lúc trái đất được tạo thành, do những sự va chạm và nổ vỡ trong thiên hà(?) hay do một quyền năng huyền bí nào đó(!). Vậy mà lúc này, nó vẫn còn nhìn thấy được cái ánh sáng của một tinh thể đã tắt từ triều triệu năm về trước. Ánh sao mà nó thấy trong lúc này, tưởng như còn đó nhưng lại không có thực. Vì thật ra, ngôi sao đó đã tắt từ bao đời. Nó tự nghĩ, so với trái đất này thì nó chỉ là hạt bụi, vậy thì so với không gian vô tận kia, nó có là cái gì đâu. Thế mà, nó vẫn mải mê chạy theo những ảo tưởng mà chẳng bao giờ bằng lòng với hiện tại, cái duy nhất có thực…
Nàng ngồi xuống cạnh nó, nói:
- Ngoài này mát ghê há!
Nó mãi đuổi theo cái ý nghĩ lạ kỳ trong tâm trí nên không hay biết.
Nàng phải lay cánh tay nó và nói đùa:
- Ðang nghĩ đến cô nào hả?
Nó ôm nàng vào lòng rồi mơn mơn những sợi tóc mai trên gáy của nàng. Những ngón tay luồn vào chân tóc làm nàng cảm thấy dễ chịu và thích thú.
- Ừ. Nghĩ đến “em”. Tối qua, sợ lắm không?
- Lúc chạy về thì sợ. Nghĩ lại còn thấy run, mà buồn cười ghê! Cũng may là không bị tù, chứ nếu không… thì mình đâu có ngồi bên nhau như thế này đâu.
Ánh mắt nàng nhìn nó trìu mến, đôi môi hé mở như gọi mời. Hai cánh tay nàng quàng lấy cổ nó và kéo xuống thật gần… Vẫn nụ hôn quen ngày nào, vẫn cái cảm giác lâng lâng và rạo rực. Nàng hôn tình tứ hơn xưa vì đôi môi đã thuần thục với vũ điệu của tình yêu. Nó ôm nàng thật sát, đến độ nó cảm nhận được nhịp đập của trái tim nàng và hơi thở ép đầy trong đôi ngực căng tròn.
- Mình vào nhà đi… Nó thầm thì
- Lỡ bất thình lình anh Lý hay Phương về thì sao?
- Thì có sao đâu, mình là vợ chồng mà…
Nàng nói lảng:
- Có chứ, sao đầy trời kìa.
- Ai bảo… hôn “người ta” làm chi?
- Chứ bộ hôn là phải…(!)
Nàng ngưng lại, nhìn nó rồi mỉm cười tinh nghịch và nói tiếp:
- Nếu vậy, sáng nào tối nào, em cũng hôn anh cho coi…
- Chỉ sợ rằng anh chết sớm rồi lấy ai cho em hôn nữa?
- Thôi. Không đùa nữa đâu. Mình nói chuyện nghiêm chỉnh nhe?
- Ừ, thì nghiêm chỉnh.
Nàng đề nghị:
- Hay… mình đừng đi nữa chứ?
- Sợ rồi hả?
- Không phải… nhưng mà Châu linh tính một điều…
- Ðiều gì vậy?
Nàng đăm chiêu:
- Châu có linh tính là mình sẽ không đi đến nơi được. Lỡ như… vì một lý do nào đó, Châu chết trên đường đi thì sao?
Không hiểu tại sao, nàng cứ bị ám ảnh về cái chết. Thật tình, nó không có câu trả lời cho nàng, ngoài cái ý nghĩ thoáng qua trong đầu là: Nếu như nàng có mệnh hệ gì thì bằng mọi cách, nó sẽ đi theo với nàng, nhưng nó không nghĩ rằng điều đó sẽ xảy ra. Nó muốn xua đi cái hình ảnh không tốt đó trong tâm trí nàng nên tìm cách nói đùa.
- Chết thì hết thở chứ làm sao. Nói vậy chứ, Châu đừng có nghĩ vẩn vơ. Sống chết mình có nhau. Khổ cùng chia, sướng thì… Thanh chịu một mình cho.
Nàng giãy nảy rồi ngồi dậy.
- Thanh lúc nào cũng giỡn được. Người gì…
Nó “van lơn”:
- Thì thôi, không giỡn nữa. Người gì…
- Người gì? Nàng cau có
- Người gì… dễ giận.
Nàng hậm hực:
- Ai biểu cứ chọc cho “người ta” giận làm chi. Người gì…
Nó mỉm cười, ghẹo:
- Người gì?
Nàng khẽ lườm:
- Người gì… dễ ghét.
- Thì thôi. Nói chuyện đàng hoàng nghe?
Nàng gật đầu rồi ngả vào lòng nó.
Nó cầm bàn tay nàng, bóp nhẹ và nói:
- Mình đi một lần nữa thôi. Cho dù bất cứ điều gì xảy đến thì mình cũng chấp nhận, sướng thì nhờ, khổ thì chịu.
- Một lần này nữa thôi nhe?
- Ừ. Lần này nữa thôi…
Nó cảm thấy bồn chồn trong lòng như bất cứ lần ra đi nào. Nàng xếp những thứ cần dùng vào hai cái giỏ-lác rồi ngồi thẫn thờ…
Bỗng dưng nàng hỏi:
- Mình đem theo trái trứng luộc nhe?
Nó thấy có điều gì bất thường trong câu hỏi của nàng (nó còn nhớ vào những ngày giỗ, người ta hay bày trái trứng luộc và ít muối trên bàn thờ để cúng người đã khuất). Mấy ngày trước đó, nàng cứ đòi đi xem cuốn phim cao-bồi của Cộng-hòa-dân-chủ-Ðức, có cái tựa là “Con đường chết”. Nó không ngờ đó lại là điềm báo trước cho sự vĩnh ly sắp đến, tựa như những đám mây đen giăng kín bầu trời báo hiệu cho một cơn giông tố hãi hùng sắp đến.
- Châu muốn ăn thì ăn bây giờ đi, chứ đem theo làm gì? À! Không biết mấy giờ rồi?
Nàng nhìn đồng hồ rồi đáp:
- Ba giờ kém mười lăm.
- Ðến ba giờ mà không có ai đến thì mình đi coi phim.
- Lỡ như họ đến mà không gặp mình rồi sao?
- Thì khỏi đi chứ sao. Họ hẹn hai giờ đến mà bây giờ đã gần ba giờ rồi, không lẽ cứ chờ cả ngày. Thanh thấy sốt ruột quá à.
- Tùy Thanh đó.
- Mình ra ngoài ngồi đi, trong này nóng quá.
Buổi xế trưa nên trời nóng bức, ngoài hành lang còn có gió nên dễ chịu hơn. Vậy mà, nó vẫn cảm thấy trong lòng như có lửa. Nó thầm mong cho đừng có ai đến, để dắt nàng đi xem phim. Thời gian trôi qua nặng nề…
- Thôi. Mình đi coi phim.
- Không chờ thêm…
Nàng ngưng lại câu nói vì chợt nhìn thấy một người lạ mặt ở đầu hành-lang đang đi tới. Anh ta tự giới thiệu là người của tổ chức và dặn rằng anh ta chờ ở quán nước ngoài ngõ rồi hấp tấp bỏ đi.
Bỗng nhiên nó “buông” một câu như nói với chính mình:
- Ðịnh mệnh đã an bày…
Nó và nàng ngồi nán lại một lúc rồi mới vào lấy hành trang và ra đi…
Chuyến đi khởi hành tại Sài-Gòn nên nó với nàng không phải vất vả như lần trước. Sau khi gặp lại người dẫn đường, anh ta đưa nó và nàng đến một điểm hẹn khác ở mé sông. Cái quán nước ven sông là căn nhà lụp sụp, chỉ có vài cái bàn và mấy cái ghế đẩu thấp lè tè. Theo dự tính, nàng và nó sẽ lần lượt được đưa lên một chiếc đò rồi sau đó sẽ chuyển qua một chiếc ghe. Từ đó sẽ ngược theo sông, từ Sài-Gòn xuống Long-An, để lên “cá nhỏ” rồi tập trung lên “cá lớn” và ra khơi vào tối hôm sau (thứ Bảy, 13-4-85). Sau khi đưa nàng lên đò, người dẫn đường trở lại quán nước nhưng không đưa nó lên đò ngay sau đó được. Gần một tiếng sau, anh ta mới đưa nó đi nhưng khi ra mé sông thì chiếc đò đã không còn đó.
- Cái “bà-già” này! Ðã dặn là chờ ở đây mà đi đâu mất biệt rồi.
Người dẫn đường lẩm bẩm rồi vấn an nó:
- Không sao đâu. Tui dẫn anh đi tìm…
Vốn đã bồn chồn và lo lắng, nó lại càng nôn nóng vì muốn gặp lại nàng. Nó lo sợ bị lạc rồi nàng phải đi một mình thì làm sao mà nó an tâm được. Trong bất kỳ hoàn cảnh nào thì nàng cũng cần có nó bên cạnh. Nó biết nhiều tình cảnh oái oăm, có khi hai vợ chồng đi chung nhưng thất lạc nhau, để rồi sau cùng thì kẻ ở người đi hoặc đắng cay hơn, người đi đến nơi và kẻ thì bị bắt…
Người dẫn đường và nó đi khắp các bến đò, mãi đến chiều tối mới gặp lại nhau, nó được đưa lên chiếc ghe cách đó không xa.
Gặp lại nàng, nó mừng như đã xa nàng từ lâu lắm.
Ngả lưng xuống đầu chiếc ghe, nó nói với nàng:
- Châu nằm xuống đây đi.
Nó duỗi tay để nàng gối đầu, nằm cạnh nhau và nhìn lên bầu trời đầy sao. Trời đêm trong và mát, thỉnh thoảng những lớp sóng nhỏ đập vào thành ghe, tạo ra những âm thanh rì-rào, êm đềm. Nếu như không phải là đang ở trong hành trình “bỏ nước”, thì nó đã tận hưởng được những giây phút thần tiên đó với một tâm hồn thơ thới, để hòa mình với thiên nhiên, với đất trời và sóng nước…
- Lúc đưa Châu qua đây, họ giữ lại cái giỏ đựng đồ của Thanh. Châu đòi thì họ nói là sáng mai sẽ trả lại. Chắc họ nghĩ rằng trong đó có vàng. Người gì mà tham…
Nó an ủi nàng:
- Thôi. Không sao đâu. Họ trả lại thì tốt, không thì thôi. Ðồ con gái mới cần, chứ con trai có mặc quần đùi cũng được.
Nàng quay qua, nhìn nó và hỏi:
- Họ làm gì mà bây giờ mới đưa Thanh tới?
- Thanh lo quá trời. Lúc xuống mé sông thì chiếc đò không có đó.
Họ phải dẫn Thanh đi lòng vòng để tìm.
- Tại vì chờ lâu quá, họ sợ bị lộ. Châu cũng lo quá trời, không biết Thanh có bị gì không?
Nó nắm lấy tay nàng đặt lên ngực mình, cái cử chỉ quen thuộc để thay cho ngôn từ, mỗi lần nó muốn nói với nàng cái câu ngắn gọn chỉ có ba chữ (nhưng dường như, ba chữ đó vẫn không diễn đạt được hết những tâm tình mà nó dành cho nàng. Có lẽ, vì thế mà nó chưa bao giờ nói với nàng câu đó).
- Sao họ vẫn chưa đi? Nàng hỏi
- Có lẽ đợi đến giữa khuya. Không biết còn “rước” ai nữa không?
- Lúc nãy, có hai người lên sau Châu. Họ ngồi ở phía trong á.
- Thường thì một ghe nhỏ cũng chỉ đón bốn hay năm người thôi. Lát nữa, họ chèo ghe đến bến phà để cho phà kéo đi.
Nó giải thích cho nàng và nói tiếp:
- Tếu lắm nha, có cả chợ ở trên sông nữa đó, họ bán đủ thứ. Ðến bến phà, mình ngủ một giấc đến sáng, thức dậy là đến nơi…
Nó vươn vai và đụng phải thành ghe rồi giật mình, thức giấc. Mái chèo được nhấc lên và đập xuống mặt sông nhịp nhàng, phát ra những tiếng bì bõm êm tai, nghe đều đều như một điệu ru. Nó nhìn ra ngoài, thấy nàng đang cặm cụi nhóm bếp. Trời vừa hừng sáng, những tia nắng đầu ngày lấp lánh trên mặt nước như đang nhảy múa. Người đàn bà đưa đường nói với nàng:
- Cô lấy ít dầu hôi trong cái đèn, đổ vô lò thì mới bén lửa được.
Nó bò ra ngoài, phụ nàng nhóm bếp. Những thanh củi bắt lửa, cháy một lúc mới đều và kêu lách tách. Khói trong lò bốc lên rồi tan loãng vào không trung.
Nhưng đàn bà dừng tay chèo, nói:
- Ðói bụng thì nấu cơm ăn. Gạo để trong cái thùng nhỏ, cạnh cái lu nước đó.
- Ăn cơm không thì Châu nấu cho? Nàng hỏi
- Ừ, thì nấu đi.
Nói xong, nó lấy cái gàu làm bằng chiếc nón sắt nhà binh cũ kỹ, múc nước sông để rửa mặt. Nước sông lạnh lạnh làm nó thấy tỉnh táo hẳn. Chiếc ghe trôi lững lờ giữa dòng sông như tách rời khỏi cuộc sống xô bồ của đô thị huyên náo. Hai bên bờ sông là những ụ đất khô cằn, lác đác vài căn nhà tranh, nhìn chỉ bằng bàn tay. Vượt biên nhiều lần nên nó đã dạn dày kinh nghiệm, vậy mà nó vẫy thấy nao nao trong lòng. Nó sợ không phải cho bản thân, mà là cho nàng. Nếu chẳng may có chuyện gì xảy ra, không biết nàng có chịu đựng được không hay nàng lại oán trách nó? Trong thâm tâm, nó chỉ mong muốn cho nàng được sung sướng và hạnh phúc. Nó nhìn chăm chăm vào dòng sông và chợt thấy hiện ra một khung trời mới…
Nó và nàng ngồi bên nhau trên một ngọn đồi xanh mướt… nắng sớm dịu dịu và ấm áp… vài tia nắng đang nhảy múa cùng những giọt sương trên cành.. xa xa, phía dưới chân đồi là một hồ nước trong, mặt hồ lấp lánh, phản chiếu những tia nắng lung linh (tưởng như những bông hoa nắng dị thường đang đua nhau nở)… ven hồ là một vườn hoa rực rỡ với những bông Cúc trắng và những cánh Uất-Kim-Hương đỏ thắm đang lả lơi trong gió, vài chú bướm si tình đang nhởn nhơ bay lượn bên những nàng bướm… vài cặp chim non đang ríu rít trên cành như hót mừng một ngày tươi đẹp… cách chỗ nó với nàng ngồi vài thước, hai đứa bé đang đùa giỡn với nhau, hồn nhiên cười nắc nẻ, tiếng cười trong như pha-lê, không vương chút muộn phiền nào của nhân gian… thằng anh chạy theo con nhỏ em, dang tay níu đứa em lại thì vừa lúc con bé vấp ngã, thằng anh cố giữ đứa em lại nhưng không có thế nên ngã chúi theo, hai đứa bé nằm sấp trên bãi cỏ còn ẩm ướt hơi sương rồi lồm cồm bò dậy, cái áo-đầm của con nhỏ em lấm tấm đất cát, tuy không đau nhưng con bé tự nhiên òa lên khóc rồi đứng dậy và dụi mắt mếu máo.
- Em méc bố cho anh coi… hu hu…
Thằng anh chống chế:
- Tại em té chứ bộ… anh đâu có xô đâu.
Nghe tiếng khóc, nó với nàng giật mình và quay lại để xem sự tình.
Ðứa em vừa khóc vừa nói:
- Hu hu… anh Ti, ảnh đẩy con ngã… hu hu…
Ðứa anh phủ nhận:
- Con đâu có làm gì đâu. Tại…
Tiếng động cơ máy xình xịch từ xa vọng lại…
Người đàn bà đưa đường cảnh giác:
- Vô trong ngồi đi. Có người đang đến đó nha.
Nàng lay vai nó và nói:
- Có người lạ kìa. Vô trong thôi.
Nói rồi nàng nắm tay nó, cùng lẩn mặt vào trong. Hai người đi chung chuyến cũng đã thức dậy, đang ngồi lặng yên như có vẻ lo lắng.
Mọi người ngồi yên lặng, nghe ngóng…
- A! Dì Hai, mấy bữa rày đi đâu mất biệt “dậy”?
- Ơ… Tui lên “trển” mua ít đồ dùng. Giá cả lên cao quá nên không đủ tiền, phải chờ thằng Út mượn giùm một ít. Chú Bảy lên “Giuộc” hả?
- Ờ. Tui lên lấy cái máy về để bơm nước…
Tiếng động cơ máy nhỏ dần rồi mất hút. Một lúc sau, thấy không có gì để lo ngại, người đàn bà đưa đường mới nói:
- Mấy cô-chú muốn ra ngoài ngồi thì ra đi. Coi nồi cơm chín chưa?
Nó “mò” ra, mở nắp nồi cơm. Nhìn những hạt gạo đã nở tét, nó biết là cơm đã chín. Nó lấy hai cái chén nhựa đã xỉn và hai đôi đũa tre đã ngả màu (nằm lăn lóc ở một xó) rồi múc nước sông để rửa lại và chuẩn bị cho bữa ăn.
Người đàn bà vừa chèo vừa nói:
- Còn ít cá kho trong cái nồi gần lu nước, chú lấy ra mà ăn.
Nó đưa nàng hai chén để bới cơm rồi “lết” lại mũi ghe để lấy nồi cá. Cái nồi đen kịt vì khói bám vào nhiều lớp, có lẽ chưa được chùi lần nào. Những con cá sông nhỏ bằng ngón tay út nằm ngổn ngang trong nồi. Nó đưa nàng coi nồi cá như ngụ ý hỏi rằng nàng muốn ăn không?
Nàng gật đầu vì chẳng có gì khác để ăn với cơm.
- Thím Hai ăn cơm. Nó mời
Người đàn bà nghe, tưởng là nó hỏi nên trả lời:
- Tui không đói. Cô-chú ăn đi rồi chuẩn bị, sắp sửa tới nơi rồi đó.
- Nàng nhìn hai người đi chung chuyến, lịch sự hỏi:
- Ðói không? Ra ăn cơm chung cho vui.
Họ lắc đầu nhưng cũng chui ra ngoài để rửa mặt và gợi chuyện. Ðang đói bụng nên nó ăn thật ngon miệng dù chỉ là bữa ăn đạm bạc với vài con cá kho mặn (không biết đã kho từ bao giờ). Nàng ăn xong chén cơm rồi múc nước sông rửa qua loa.
- Châu ăn gì mà có một chén à? Ăn thêm đi.
- Châu no rồi.
Nàng rót nước (từ cái ấm bằng nhôm cũng đen kịt và móp méo) ra cái chén, uống vài ngụm rồi đưa cho nó.
- Nước uống lờ lợ làm sao á!
- Ờ. Nước sông mà.
Nó uống cạn chén nước rồi lấy thuốc lá, mời người thanh niên.
- Hút thuốc không?
Anh ta lắc đầu, mỉm cười xã giao.
- Châu mệt thì lấy miếng sâm ngậm cho khỏe? Nó hỏi nàng
Nàng cởi cái áo khoác ra vì nắng ấm đã lên.
- Bây giờ thì chưa mệt. Mình có phải lội bộ như lần trước không?
Nó không biết chắc nhưng với kinh nghiệm những lần đi trước và phần không muốn nàng phải lo sợ nhiều nên nó nói:
- Không, chuyến này “đánh” bến khác. Lát nữa, họ chuyển mình qua chiếc ghe lớn hơn, chạy bằng máy dầu rồi đợi đến tối đưa mình lên tàu để đi. Nghe nói chuyến này có chừng năm mươi người.
Chẳng bao lâu sau, chiếc ghe tấp vào “cá nhỏ” (chất đầy nứa bên trên để ngụy trang). Một số người đã có mặt ở đó. Ðến trưa thì trong ghe cũng đã có hơn hai chục người lớn và vài đứa con nít. Không khí trở nên ngột ngạt vì hơi ẩm từ những cây nứa tỏa ra dưới cái nóng ban trưa, cùng với hơi người và thêm vào đó là sự lo âu, hồi hộp. Mọi người yên lặng vì mệt mỏi, vài người lâm râm như đang cầu nguyện. Nét mặt người nào cũng đăm chiêu và tư lự, trừ mấy đứa nhỏ thỉnh thoảng cau có vì thiếu dưỡng khí nhưng sau đó lại lăn ra ngủ ngon lành. Tiếng người nói chuyện bên ngoài vọng vào. Liền sau đó, thức ăn và nước uống được đưa xuống. Mọi người chia nhau những cái bánh tét và mấy củ sắn để ăn lấy lệ. Vài người bắt đầu sốt ruột nên hỏi thăm nhau về chuyến đi nhưng cũng chẳng có ai biết gì về kế hoạch đã vạch sẵn. Họ chỉ như những toa hàng lăn theo cái đầu máy, trên đường ray cố định. Không khí càng lúc càng oi bức và ngột ngạt hơn. Những ống nứa được kéo dạt về một bên để có khoảng trống cho hơi nóng bên trong thoát ra và gió mát bên ngoài thổi vào. Mọi người cảm thấy dễ chịu hơn nhiều. Ngồi đối diện với nó là một người tàn phế. Anh ta bị gãy mất một chân trái, cái chân cụt gần hết nên anh ta phải cột cái ống quần lên cao cho đỡ vướng víu. Nó cười thân thiện rồi lấy thuốc lá mời anh ta. Anh ta rút điếu thuốc, gõ tong-tong lên cái đầu gối còn lại.
- Cám ơn.
- Chân anh? Nó dè dặt hỏi
Anh ta mỉm cười chua chát:
- À! Bị trúng pháo.
Theo như anh ta kể thì sau năm 30-4-75, anh ta được “mời” ra khỏi nhà thương khi vết thương chưa lành hẳn, vì có “tội” với nhân dân. Anh là lính trong quân đội VNCH, từng ôm ấp lý tưởng chiến đấu để bảo vệ độc lập và tự do cho quê hương, dân tộc. Nhưng sau ngày nền đệ nhị cộng hòa bị cáo chung, anh nhận thấy cái lý tưởng đó chỉ là một lớp sơn bóng loáng, được tô phết bên ngoài căn nhà đã mục nát (quê hương vốn đã nghèo nàn và chậm tiến, nay lại nhận thêm đạn bom và chất hủy diệt môi sinh. Những người lãnh đạo thì thiếu tài thiếu đức, chỉ lo cho quyền lợi của chính họ. Những người thanh liêm muốn lột trần chế độ thì lại không đủ quyền thế nên một số bị “cho về hưu” hay bị “đi tàu suốt”, một số âm thầm giữ kín trong lòng mà nuôi chí lớn. Rốt cuộc thì anh nhận ra rằng, người ta đã nhân danh tổ quốc mà đưa anh ra chiến trường, để bảo vệ quyền lợi của bọn “tài phiệt chiến tranh” chuyên làm giàu bằng xương máu và bất hạnh của đồng loại. Trong giờ phút lầm chung của Tổ quốc, những người nắm giữ vận mệnh của đất nước vẫn còn chưa “tỉnh ngộ”, họ vẫn ra vẻ như mình lúc nào cũng tận trung với nước với dân, họ tuyên bố rằng sẽ sát cánh với quân đội để chiến đấu tới cùng. Nhưng chỉ vài giờ sau đó, họ đã ra đi và không quên đem theo những gì họ đã “góp” được trong những năm tháng làm “lãnh tụ”. Những người thật sự một lòng vì nước, vì dân thì hoặc đã tự xử với khí phách của một Hoàng Diệu thuở xưa, hoặc ở lại để gánh chịu những oan khiên của đời binh nghiệp). Những hận thù mà người ta gán cho anh, thật ra cũng chỉ là ảo tưởng. Cái mà anh thật sự thù hận, đó là chiến tranh và nghèo khổ, bởi vì cái hoài bão trong anh vẫn mơ ước ngày nào đó quê hương sẽ thanh bình và ấm no. Những người bên kia chiến tuyến cũng giống như anh, họ cũng được khoác lên lớp sơn của lý tưởng. Cái lý tưởng đó là chiến đấu để giải phóng và thống nhất đất nước, đưa dân tộc ra khỏi ách thống trị của ngoại bang. Nhưng sau khi thống nhất đất nước, thì cái lý tưởng đưa dân tộc đến chỗ ấm no và hạnh phúc kia bị vỡ bung ra từng mảnh, như một khối băng rã dần và tan ra dưới ánh mặt trời. Sau khi “khoan hồng” và đưa đi cải tạo toàn bộ những “chiến sĩ bất hạnh” của nền đệ nhị cộng hòa thì những lớp sương mù dầy đặc của chiến tranh mới bắt đầu tan đi.
Người ta cứ nghĩ rằng sau lớp sương mù đó là một lâu đài nguy nga, tráng lệ nhưng than ôi(!) đó chỉ là một ngôi nhà hoang tàn, xiêu đổ. Thay vì mang vật liệu đến để xây dựng lại, thì họ lại tháo gỡ những gì còn dùng được và lấy làm của riêng.
Sau hai mươi năm, cuộc “huynh đệ tương tàn” kết thúc. Cái giá phải trả, ngoài những người nằm xuống ở mọi lứa tuổi, ở mọi thành phần, là vết thương trên mình quê hương và sự ngăn cách giữa con người ở hai miền đất nước (mà có lẽ đến ngàn năm sau vẫn chưa xóa nhòa). Ðến bao giờ con người mới biết thương yêu nhau thật sự bằng trái tim…
Bên ngoài, nắng chiều đã tắt. Thỉnh thoảng, có chiếc tàu của công an lảng vảng qua lại nhưng toán này đã bị mua chuộc, chỉ có nhiệm vụ canh phòng, tuy nhiên vẫn làm mọi người trong ghe xôn xao. Trời tối dần, “cá nhỏ” bắt đầu đến điểm hẹn… Sau đó không lâu, một chiếc ghe nhỏ tấp vào và có tiến người xì xào.
- “Cá lớn” ra rồi.
- Có gì thay đổi không?
- Chuẩn bị “giao hàng” đi.
“Cá nhỏ” được cho nổ máy rồi lướt đi trong đêm. Những cây nứa được gom hết qua một bên, gió sông lùa vào thật mát, chung quanh tối đen như mực. Khi đến gần “cá lớn”, người tài công đánh đi những tín hiệu bằng đèn pin rồi cho tắt máy để “giao hàng”. Trong bóng đêm, người ta nói léo xéo với nhau thật ồn ào…
Một người trong toán tổ chức hỏi:
- Cho hàng lên được chưa “chú sáu”?
- Khoan đã, cánh này lên trước đi.
Người đàn ông mang biệt danh “chú sáu” rọi đèn pin vào từng người và hỏi tên rồi dò vào danh sách để kiểm tra lại, sau đó mới cho lên để tránh những trường hợp “đi lậu”.
- “ Ðánh” được chưa “chú sáu”?
- Còn chờ “thằng ba” đem mấy thùng nước ra.
- Hồi chiều, không thấy nó…
- Chết mẹ rồi…
Ông sáu càu nhàu rồi rọi đèn nhìn đồng hồ.
- Làm sao giờ “chú sáu”?
- Mày coi trên tàu có thùng nước nào không?
- Chỉ có một thùng dự trữ thôi.
Ông sáu ngần ngừ một lúc rồi quyết định:
- Thôi, đánh đại đi. Chần chừ ở đây là chết cả lũ.
Nói xong, ông ta lẩm bẩm chửi thề rồi nhảy qua chiếc ghe khác, để lại một mối lo cho mọi người nhưng không ai có thể thay đổi kế hoạch. Con tàu nổ máy và bắt đầu cuộc hải trình, mang theo số phận của năm mươi ba người…
Khi ra cửa biển, con tàu chòng chành lắc lư vì sóng đập vào hai bên thành tàu và làm nước biển bắn tung tóe lên tàu.
- Kéo tấm bạt lại đi.
Vài người đứng lên, kéo tấm bạt (dùng để che mưa nắng) phủ kín con tàu. Không khí trở nên ngột ngạt. Vài người bắt đầu nôn ọe vì say sóng.
Nó ôm vai nàng và nói:
- Nhắm mắt lại đi. Cứ tưởng tượng như đang đánh đu thì đỡ sợ hơn.
Nàng ôm bụng và co thắt người lại nhưng chỉ nôn ra hơi.
- Ráng chịu một chút. Ra khỏi cửa biển sẽ bớt sóng.
Bên ngoài, sóng đập vào thành tàu nghe rờn rợn. Gió biển lùa thốc vào, thổi tấm bạt căng lên nhưng vẫn không cuốn đi được cái không khí chua chua nồng nặc. Vài người chóng mặt, ngã đè lên chân của người khác. Sau hơn nửa tiếng vật lộn với sóng biển, con tàu thoát ra khỏi cửa biển và đằm trở lại, không còn bị nhồi lên nhồi xuống và lắc qua lắc lại.
- Kéo tấm bạt ra cho thoáng một chút đi.
Nó đứng dậy cùng với vài người nữa, kéo tấm bạt qua một bên. Thành tàu ngang với tầm mắt. Chung quanh là biển đen ngòm. Xa xa, ngọn hải đăng trông như một vì sao. Mặt biển êm như một dòng sông không chút gợn sóng. Nó ngồi xuống, lấy gói chanh cam thảo trong túi hành trang và đưa cho nàng.
- Châu ngậm chanh đi.
Nàng lấy miếng chanh, cho vào miệng rồi lấy thêm, đưa cho nó.
- Thôi, Thanh chưa cần. Ðể dành đó đi. Châu nhắm mắt lại ngủ đi.
Nó cong chân lại để nàng tựa đầu. Mọi người cố tìm giấc ngủ. Vài người lâm râm như đang cầu nguyện. Nó nhắm mắt lại và mệt mỏi thiếp đi…
Hai ngày đầu của cuộc hải trình trôi qua chậm chạp, vì thiếu nước nên mọi người chỉ được phát để uống cầm hơi. Cơm cũng được phát nhưng ít ai ăn vì sợ khát (chỉ nhai để lấy nước trong những hạt cơm). Tối đến, vài người không chịu nổi cơn khát nên đã lén lấy nước để chia nhau uống. Nó và nàng ngồi gần đó nên cũng được chia phần (chỉ được một nắp bình, uống hai ngụm là hết). Nó để nước thấm từ từ xuống cổ từng giọt một, nhưng nghĩ đến nàng nên nó nhả nước ra lại để nàng uống, rồi vỗ về ru nàng ngủ.
- Ráng ngủ đi cho có sức…
Sáng hôm sau, vụ lấy trộm nước uống bị phát hiện nên thùng nước được khóa lại cẩn thận.
Một người trong nhóm tài-công phân trần:
- Mấy anh chị thông cảm. Nước không đủ mà chưa biết mấy ngày nữa mới tới đảo. Hy vọng ngày mai sẽ ra đến hải phận quốc tế, nếu được tàu ngoại quốc vớt thì tha hồ uống. Không phải tụi tôi giữ nước để xài riêng.
Nó nghĩ vì mọi người còn chịu đựng được cơn khát, chứ nếu không thì họ đã chẳng ngồi yên mà nghe. Ðến trưa thì cơn khát lại hoành hành. Mọi người khát khô, chỉ đợi được phát nước uống. Vài người cột cái khăn vào sợi dây, thòng xuống biển rồi vớt lên để lau mặt.
Một đứa nhỏ la lên:
- Khát nước quá.
Một đứa khác kêu:
- Ba ơi. Con muốn uống nước…
- Ừ. Lát nữa, ba lấy cho.
Anh ta nói phỉng với đứa nhỏ rồi lột vỏ trái chanh, bóc một múi và đưa cho nó.
Thằng bé bỏ vào miệng, cắn nhưng lại nhả ra ngay rồi lè nhè:
- Chua quá! Con muốn uống nước à…
Ðứa kia hòa điệu theo:
- Khát quá!
Người đàn bà có con nhỏ, chịu không được nên nói như van xin:
- Cho đứa nhỏ ít nước uống đi.
Người đàn ông trong toán tài-công (có bốn người) trèo xuống, mở khóa nắp thùng nước rồi múc ra một ca nước và chiết ra cái nắp bình nhỏ xíu, truyền cho từng người. Nét mặt người nào cũng bơ phờ, hốc hác như những thân cây khô. Hai ngụm nước trong cái nắp bình như hai giọt nước cam lồ quý giá đối với mọi người. Ai cũng tươi tỉnh lại phần nào nhưng cũng chẳng được bao lâu, vì hai ngụm nước như bị bốc hơi nhanh chóng dưới sức nóng của ánh mặt trời.
Người đàn ông đưa cho nó múi chanh và nói:
- Ngậm đỡ múi chanh cho bớt mệt.
Nó xé đôi múi chanh, đưa cho nàng một nửa.
- Châu ngậm đi.
Nó cho miếng chanh vào miệng (đã khô đắng). Vị chua của miếng chanh làm ê ẩm miệng và buốt cả hàm răng nhưng nó ráng giữ miếng chanh lại trong miệng. Nó cảm thấy thèm một ly nước hơn bao giờ hết… Ðến xế trưa thì trời nổi giông và mây đen vần vũ kéo đến…
Vài người reo lên:
- Sắp mưa rồi! Sắp mưa rồi!...
Mọi người mừng rỡ. Chỉ vì mong có nước uống mà người ta quên cả rằng đằng sau đám mây đen kia, có thể là một cơn bão bất thường. Gió thổi mạnh hơn làm con tàu chòng chành nhưng mặt biển vẫn êm. Cơn mưa rào lướt qua rồi bay theo gió, về phương trời nào đó. Bầu trời lại quang đãng, cái quang đãng đang bị nguyền rủa. Những hạt mưa rơi rớt, chẳng thấm tháp vào đâu nhưng cũng tạo thành một vũng nước nhỏ trên tấm bạt che nắng. Một người múc nước đọng trên tấm bạt và gạn lọc được một ca nhỏ. Anh ta uống thử một ngụm nhưng phun ra ngay.
Anh ta định đổ xuống biển nhưng như còn tiếc nên hỏi:
- Có ai muốn uống không?
Mọi người truyền cho nhau, uống thử nhưng đều phun ra. Nàng cầm ca nước, nhắp nhắp đầu môi rồi đưa cho nó.
- Thanh uống thử coi. Hôi hôi nhưng mà uống cũng được.
Nó uống vào một ngụm nhỏ nhưng đến ngang cổ thì khạc ra ngay vì nước trong cái ca vừa mặn vừa tanh, có lẽ còn “ghê” hơn cả nước dưới sình.
Nó nhăn mặt.
- Eo! Nước gì mà ghê quá!
- Châu thấy uống cũng được mà.
- Thôi đổ đi. Ðâu có ai uống đâu?
Nàng chần chừ nhưng cũng đổ ca nước xuống biển. Mọi người nhìn theo đám mây đen bay đi mà tiếc nuối. Mặt trời như một con quỷ dữ rọi những tia nắng quái ác xuống những sinh vật đang khô lả vì thiếu nước uống. Nắng bỗng trở thành một thứ tai ương và đang nhảy múa những vũ khúc ma quái trên mặt biển. Nó chợt nhận ra rằng trong cuộc sống, có những thứ mà hằng ngày nó tầm thường đến mức bị lãng quên thì bỗng một lúc nào đó, nó trở nên cần thiết đến và vượt ra khỏi cái giá trị thường hằng. Trong thoáng giây, nó như nhận ra cái nhiệm màu của mọi thứ trong cuộc sống. Nó chợt hiểu ra rằng nước thật sự có giá trị hơn viên ngọc bích vì những ích lợi mà nước đã mang lại. Không có vàng bạc, kim cương và đá quý thì con người vẫn không bị ảnh hưởng, nhưng nếu không có nước thì vạn vật sẽ không còn sự sống. Mặt trời thật sự cũng cần thiết vì nếu không có mặt trời thì cũng không có sự sống. Tất cả những thứ cần thiết cho sự sống cũng phải được dung hòa để giữ trạng thái quân bình, không thừa mà cũng không thiếu… Một ngày nắng cháy lại trôi qua… Buổi tối, nó nằm mơ thấy một dòng sông nên chạy lại, vốc nước lên uống nhưng nước mặn chát, làm nó cảm thấy khát hơn. Nó giật mình thức giấc. Cổ khô và miệng đắng làm nó có cảm tưởng như da thịt mình sắp nứt rạn. Nàng đã thiếp đi trong cơn khát. Nó cầm tay nàng và nhận ra thân nhiệt nàng nóng như đang bị sốt. Lòng nó chợt se lại nhưng đôi mắt vẫn ráo khô, nước mắt cũng đã khô cạn vì thiếu nước uống trong mấy ngày qua. Nó chẳng biết làm gì hơn là cầu mong cho mau đến đất liền để lo liệu cho nàng. Ðầu óc nặng trĩu và nó mệt lả rồi thiếp đi…
Khi tỉnh dậy thì trời đã hừng sáng. Cuộc hải trình mới qua ba ngày và bốn đêm mà ai cũng như khúc củi khô, không còn sinh khí. Nó tự nghĩ, có nhiều người lênh đênh trên biển gần cả tháng trời mà vẫn sống sót như một phép màu. Quả thật, trong cuộc sống có những điều mà lý trí không thể nào hiểu được.
Nàng cũng thức giấc và gắng ngồi dậy.
- Mình ra đến hải phận quốc tế chưa? Nàng hỏi
- Mấy người tài-công đoán là mình đã ra đến rồi. Hy vọng là gặp tàu ngoại quốc vớt hay ít ra thì họ cũng tiếp tế cho mình lương thực và nước uống.
Mọi người nằm ngổn ngang, gác lên nhau nhưng cũng chẳng ai bận tâm. Một cô gái đứng lên đi tiểu tiện, khi trở lại chỗ nằm, có lẽ vì mệt nên lảo đảo và ngã xuống ngay cạnh nó. Nàng tuy mệt nhưng cũng ngồi lên, đẩy cô ta qua một bên rồi chen vào giữa và không quên lườm cô ta một cái. Nó thấy vừa buồn cười vừa thương cho cái tính ghen cố hữu của nàng. Ðến trưa thì con tàu ra đến hải phận quốc tế. Thỉnh thoảng gặp vài chiếc thuyền ngoại quốc từ xa. Người tài-công treo cái áo trắng lên và đồng thời đốt một bó đuốc để cầu cứu nhưng họ đều ngoảnh mặt làm ngơ. Mọi người cứ hy vọng để rồi lại thất vọng… Mãi đến tối mới có một chiếc thuyền độ-lượng, ra tay cứu giúp sau khi nhận được tín hiệu cấp cứu. Mọi người reo mừng, ai nấy cũng thấp thỏm đứng lên nhìn và cầu mong không phải là tàu tuần duyên của công an biên phòng. Xa xa, chiếc thuyền ngoại quốc sáng rực những ánh đèn pha.
Người tài-công nói:
- Tất cả nằm xuống hết nghe chưa. Cứ giả vờ như sắp chết…
Mọi người nằm xuống ngổn ngang, gác cả lên nhau nhưng không ai phàn nàn, vài người cười khúc khích trong nỗi mừng vui. Khi con tàu tiến lại gần chiếc thuyền chở hàng, nó hé mắt nhìn. So với con tàu bằng gỗ ọp ẹp chỉ như con chim én bé tí, thì chiếc thuyền sắt to như một con đại bàng. Thủy thủ trên chiếc thuyền đã chuẩn bị sẵn sàng trong những bộ đồ cấp cứu.
Thịnh, một người biết tiếng Anh, đứng ra nói chuyện với viên thuyền trưởng của chiếc tàu ngoại quốc. Thịnh cho hay là mọi người trên tàu đang đào thoát khỏi chế độ Cộng-sản, mong được vớt đến trại tị nạn nào gần đó nhất vì con tàu đã cạn nhiên liệu và nước uống, đồng thời máy móc lại không được an toàn. Viên thuyền trưởng cho mời Thịnh lên thuyền của họ để tiếp chuyện. Trong lúc đó, các thủy thủ ngoại quốc đứng nhìn xuống con tàu vượt biên với đôi mắt vừa thương hại vừa cảm phục. Vài người chụp hình và thảy xuống trái cây. Những cái xác mới vài phút trước đây nằm như chết, bỗng hồi sinh và giơ tay đón bắt trái cây từ trên thả xuống. Nửa tiếng sau, Thịnh trở lại và cho biết chiếc thuyền ngoại quốc là của Ba-Lan (thời điểm này, nước Ba-Lan còn trong chế độ Cộng-sản), vì thế họ không thể làm theo yêu cầu và đã đưa ra mà họ chỉ tiếp tế nhiên liệu, nước uống và những thứ cần thiết để tiếp tục cuộc hải trình. Một vòi nước lớn được truyền xuống, sau khi chứa đầy thùng và những gì có thể dùng để chứa nước, mọi người rửa mặt và uống cho đã cơn khát của mấy ngày qua. Viên thuyền trưởng Ba-Lan tặng một cái la-bàn rồi hướng dẫn đường đi ngắn nhất để đến đất liền và cho biết đi khoảng hai ngày nữa thì sẽ tới. Sau đó, con tàu lại tiếp tục lên đường. Mọi người vẫy tay chào nhau. Tuy hơi thất vọng nhưng ai nấy cũng yên lòng khi biết rằng chỉ còn hai ngày nữa sẽ đến đảo và không còn sợ thiếu nước uống.
Nó nói để vấn an nàng:
- Vậy là mình không sợ thiếu nước nữa rồi. Nếu như không gặp tàu nào vớt thì hai ngày nữa mình cũng đến đảo.
- Vào đến đảo, mình mua tám lon Coca uống cho đã.
Nó cảm thấy có điều gì khác thường khi nàng nói như thế.
- Chỉ sợ Châu uống một lon là ngán rồi.
Nàng cầm trái cam ướp lạnh mà thủy thủ Ba-Lan thả xuống, áp lên mặt như đang âu yếu cái gì quý giá mà nàng sợ phải lìa xa mãi mãi.
Con tàu lại tiếp tục cuộc hải trình trong đêm đen. Xa xa, những ánh đèn pha trên chiếc thuyền Ba-Lan nhấp nháy như những ánh sao đem và từ từ mất hút trên mặt đại dương đen ngòm, bao la tưởng như không bờ không bến…
- Châu ngủ đi, tựa đầu lên vai Thanh nè.
Nói xong, nó quàng vai nàng để nàng ngả đầu lên vai nó. Nó nhận ra rằng áo nàng bị ướt nên bảo nàng thay cái áo khác. Thay áo xong, nàng đòi thay cả quần (vì cũng bị ướt và hôi hám). Mặc dù trời tối đen nhưng nó vẫn lấy cái áo nàng vừa thay ra để làm tấm vải che cho nàng. Nàng đứng dậy, vịn vai nó rồi thay vội vàng cái quần đã mặc mấy ngày đường. Thay đồ xong, nàng ngả đầu vào lòng nó như đêm nào, khi mới tập tễnh hôn nhau lần đầu. Nó cầm tay nàng và nhận ra thân nhiệt nàng vẫn nóng. Mấy viên thuốc cảm cúm mà nàng uống hôm qua, dường như cũng chẳng làm thuyên giảm cơn sốt được chút nào. Một đêm dài trên biển cũng trôi qua. Sáng hôm sau (ngày 17-4-85) khoảng chín giờ, con tàu lại may mắn gặp một chiếc thuyền ngoại quốc khác. Mọi người lại giả vờ như kiệt sức và nằm la liệt trên sàn tàu. Sau khi đánh tín hiệu cấp cứu và được sự chấp thuận của chiếc thuyền ngoại quốc, người tài-công cho con tàu sáp lại gần chiếc thương thuyền. Thành tàu bằng gỗ đụng vào thân chiếc thuyền bằng thép, kêu răng rắc tưởng như muốn vỡ bung ra. Thịnh lại đứng ra để nói chuyện với các thủy thủ của chiếc thuyền ngoại quốc. Sau đó, Thịnh cho mọi người biết rằng chiếc thuyền buôn của Ðại-Hàn. Viên thuyền trưởng mời Thịnh lên để tiếp chuyện. Có lẽ dưới mắt họ, những người vượt biển trên chiếc tàu bằng gỗ mong manh là những con người gan dạ, dám đem tính mạng của chính mình thách đố cùng đại dương, để đánh đổi lấy tự do. Trong khi Thịnh nói chuyện với viên thuyền trưởng thì các thủy thủ Ðại-Hàn truyền xuống một chậu sữa tươi đã đun nóng để mọi người uống. Hơn nửa giờ sau, Thịnh cho hay là viên thuyền trưởng chấp thuận vớt mọi người lên thuyền của họ để đưa vào bờ, nhưng khi đến gần họ sẽ thả xuống lại vì sợ mực nước cạn, đồng thời họ sẽ tìm cách liên lạc với những người trong đảo để đón vào. Mọi người lần lượt được đưa lên chiếc thuyền Ðại-Hàn. Sau đó, các thủy thủ dùng cần trục để kéo chiếc tàu gỗ lên. Mọi người tập trung vào một góc chiếc thuyền, cười nói huyên thuyên. Mọi hiểm nguy trong cuộc hải trình không còn ám ảnh, ai nấy đều như được hồi sinh sau những ngày hoang mang lo sợ. Các thủy thủ Ðại-Hàn mang thêm cháo, cơm và nước uống cho mọi người. Vài phụ nữ như còn say sóng, đang nằm dài trên sàn thép. Nó dìu nàng lại nằm gần đó.
- Vậy là hết sợ gì nữa rồi. Họ đưa mình vô đất liền.
- Ðây là đâu vậy? Nàng hỏi
- Mình đang ở trên hải phận của Nam-Dương. Châu nằm nghỉ đi.
Ðặt nàng nằm xuống, nó đi lại vòi nước gần đó để rửa mặt cho tỉnh táo. Ðứng nhìn xuống mặt biển bao la, nó mới thấy rằng mình đã thật sự liều mạng khi ra đi bằng con tàu gỗ bé tí. Bốn phía là đại dương và chân trời xanh thẳm, không thấy đâu bến bờ. Biển với bầu trời nắng chói không còn là những bóng ma hãi hùng và hung tợn như những ngày trước, mà trái lại, cả một khung trời mới (như niềm mơ ước hôm nào) sắp thành sự thật. Gió thổi lồng lộng bốn bề…
Một người đến vỗ vai nó.
- Anh không lấy cái gì cho chỉ ăn hả?
Mọi người đang tụ tập lại thành từng nhóm nhỏ, vừa ăn vừa bàn tán về chuyến đi đã qua và viễn tượng trong những ngày sắp đến.
Nó đi lại ngồi bên cạnh nàng, hỏi:
- Châu ăn gì không?
Nàng mỉm cười rồi khẽ lắc đầu.
- Nằm nhích qua một chút cho đỡ gió nhe.
Nói xong, nó nhấc nàng nằm qua chỗ kín gió hơn nhưng gió vẫn tạt từ mặt biển vào.
Nàng nói nhỏ vào tai nó:
- Em hạnh phúc quá…
- Châu nói gì? Nó hỏi lại vì nghe không rõ
- Em… hạnh phúc quá. Nàng mỉm cười
Nó mắng yêu nàng:
- Lại nói nhảm nữa rồi. Nằm nghỉ đi.
Nàng phụng phịu như muốn giỗi hờn…
Trong khi các thủy thủ Ðại-Hàn hỏi thăm Thịnh về cuộc hải trình và chụp hình chung với vài “thuyền nhân”, thì viên thuyền trưởng chỉ về phía những người đang nằm trên sàn rồi hỏi Thịnh (tạm dịch):
- Có phải họ bị bịnh không?
Thịnh gật đầu thay cho câu trả lời.
Viên thuyền trưởng nói chuyện với Thịnh. Sau đó, Thịnh nói lại những ý chính cho mọi người.
- Bây giờ, mấy người không được khỏe đi lên phòng lạnh, trên đó có giường để nằm nghỉ. Cần vài người dìu họ, đi theo anh thủy thủ này lên đó.
Nó nâng nàng đứng dậy. Vài người đến phụ nó dìu nàng và hai người bịnh nữa, đi theo sự hướng dẫn của người thủy thủ lên phòng nghỉ. Bước vào trong, mắt nó không trông thấy gì vì đã quen nhìn ánh nắng chói chang bên ngoài. Mất vài giây, nó mới thấy lờ mờ lối đi nhờ ánh đèn huỳnh quang trong thuyền.
Như hoang mang về điều gì, nàng hỏi:
- Lại đi đâu nữa đây?
Nó trả lời trong lúc dìu nàng lên những bậc thang:
- À, lên phòng lạnh. Trên đó có giường để nằm…
Căn phòng được dùng làm phòng bệnh cho các thủy thủ, chỉ có hai cái giường (phủ hai tấm khăn trắng toát như giường bệnh trong nhà thương) kê sát góc tường hai bên. Nàng nằm xuống và thở ra mệt nhọc. Hai người còn lại nằm chung ở cái giường đối diện. Một người thủy thủ mang vào hộp nước trái cây và vài viên thuốc. Anh ta đưa cho nó một viên và ra dấu, như muốn nói đưa cho nàng uống. Nó nâng nàng dậy, đưa thuốc cho nàng uống nhưng vài phút sau, nàng lại nôn ra và đôi mắt nàng lờ đờ khép lại rồi chìm dần vào cơn mê. Nó hỏi gì thì nàng vẫn nằm yên, không trả lời. Mấy người thủy thủ nói chuyện với nhau, một người lắc đầu tỏ vẻ lo ngại cho tình trạng của nàng. Sau đó, viên thuyền phó và Thịnh lên để thăm hỏi. Hai người nói chuyện với nhau và Thịnh thông dịch lại cho nó:
- Anh ta nói tiếc là không có bác sĩ đi theo trên tàu. Anh ta sẽ đề nghị với viên thuyền trưởng mang chỉ vào đất liền, nếu như…
Thịnh ngập ngừng rồi nói tiếp:
- Nếu như… có chuyện gì xảy ra… thì anh cũng phải bình tĩnh…
Nó cảm thấy hoang mang thật sự. Không lẽ nàng lại ở trong tình trạng hiểm nghèo đến thế sao(!?). Mới nửa giờ trước đây, nàng còn nói chuyện với nó mà. Nó ngồi cạnh nàng, mà như người mất trí. Nàng nằm như mê ngủ, thỉnh thoảng nói vài câu bằng một ngôn ngữ lạ kỳ mà không ai hiểu được. Nó cầm tay nàng, thấy tay nàng nóng như lửa. Cơn sốt đã làm nàng hôn mê. Vài người hiếu kỳ chạy lên.
Một cô gái lại gần, hỏi nó:
- Chỉ còn tỉnh không?
Nó buồn bã lắc đầu.
Cô gái ngồi xuống, vỗ nhẹ lên mặt nàng.
- Chị nghe gì không? Trả lời đi…
Nàng vẫn nằm im, bất động.
- Thử vắt chanh vô miệng chỉ xem có tỉnh lại không?
Nó nhờ một người có mặt ở đó đi hỏi xin trái chanh. Nước chanh vắt vào miệng thì nàng lại nôn ra. Cơ thể nàng dường như không còn muốn tiếp nhận bất cứ thứ gì nữa. Ðôi mắt nàng khép kín và hơi thở yếu dần… Nó không biết phải làm gì để nàng tỉnh lại, ngoài việc ngồi cầu nguyện… Thời gian như dòng nước đóng băng, nó như người mất trí không còn suy nghĩ được gì. Thân nhiệt nàng đột nhiên giảm xuống rồi tay chân bắt đầu lạnh và vành môi tái nhợt dần… nó vừa bối rối vừa hoang mang lo sợ, chưa biết phải xử sự ra sao thì vừa lúc có một người đi vào.
- Anh làm ơn xuống dưới, hỏi xem có ai biết lể không?
Vài phút sau, hai người phụ nữ đi lên. Một người cầm mũi kim khâu, đến ngồi xuống bên giường và cầm tay nàng.
- Sao tay chỉ lạnh vậy nè!?
Nó nhìn cô gái, cầu cứu:
- Chị biết lể không?
Cô gái gật đầu rồi cầm bàn tay trái của nàng lên, nắm lấy ngón trỏ và dùng mũi kim chích nhẹ vào. Vừa khi đó, nàng thét lên làm cô gái giật mình. Nó sững sờ nhìn nàng, đôi mắt nàng đang nhìn nó như muốn đem theo hình ảnh của nó vào chốn thiên thu với nàng, đôi mắt buồn và độ lượng như thuở nào. Nó biết rằng nàng đã ra đi mà không nói lời từ biệt…
Cô gái vừa sợ vừa lúng túng:
- Anh phụ nặn máu ra giùm đi.
Ðôi mắt nó vẫn thất thần, nhìn nàng.
- Thôi. Chị đừng hoài công nữa.
- Còn nặn ra máu được mà. Còn nước còn…
Cô gái nhìn nàng và chợt hiểu rằng mọi cố gắng bây giờ đều trở thành vô ích. Mọi tế bào và cảm xúc trong nó như tê cứng lại. Nó như một tượng đá, ngồi yên bất động. Nó không còn cảm nhận được gì nữa, ngoài cái trống vắng dị thường và ngỡ như trái đất vừa nổ tung ra không còn gì cả, không có nó, không có nàng, không có cả không gian và thời gian. Nó không biết cái trạng thái đó kéo dài bao lâu, đến khi nó hoàn hồn thì mọi người đã đi đâu cả. Hai cô gái nằm ở cái giường đối diện cũng đã rời khỏi phòng từ lúc nào. Trong căn phòng, chỉ còn lại riêng nó với nàng và cái tịch lặng…
- Nếu lỡ như Châu chết thì sao?... Châu chết thì sao?…
Giọng nói của nàng ngày nào, như vẫn còn vang vang đâu đây…
- Nếu như em chết thì sao? Nàng âu yếm nhìn nó, hỏi
- Nếu như em chết thì sao hả? Thì…
- Thì sao? Nàng nũng nịu
Nó lấy hai ngón tay, ngắt nhẹ chóp mũi của nàng.
- Thì anh không cho chết chứ sao.
- Em nói ví dụ đó mà.
- À! Ví dụ hả? Ví dụ, thì… thì anh sẽ đi theo em chứ sao.
- Thôi đi. Người ta sẽ nói rằng anh mất trí và chê anh dại khờ đó.
- Ừ, thì kệ người ta. Anh chỉ cần biết là anh yêu em và anh “sống” trọn vẹn cho tình yêu đó.
- Thiệt “hông” đó?
Nó trêu nàng:
- Thì ví dụ mà. Không tin hả? Không tin thì chết thử coi.
- Ừ, em chết nè…
Nói xong, nàng buông thõng hai tay và giả chết nhưng lại mở mắt ra rồi nói thêm:
- Nhưng mà em không cho anh theo đâu. Em muốn anh phải sống cơ.
- Ừ, thì anh phải sống…
Nó nhìn nàng và cúi xuống hôn lên đôi mắt buồn lần cuối rồi bồng nàng lên. Như một người máy, nó lặng lẽ tiến về phía thành chiếc thuyền, nhưng cái thành cao quá nên nó không thể nào vừa ôm nàng vừa trèo qua được. Chỉ còn cách là phải xuống lại phía dưới, dưới đó không có thành chắn, mà chỉ có những sợi dây-cáp giăng ngang tạm thời và có một khoảng trống đủ để nó chui qua. Nếu theo cầu thang ở phía đầu chiếc thuyền đi xuống, nó sợ mọi người sẽ đoán được ý định của mình và ngăn cản (vì mọi người đang tập trung ở phía đó) nên nó bồng nàng xuống theo lối cầu thang ở giữa chiếc thuyền. Khi nó xuống đến nơi thì vài người trông thấy nên chỉ cho nhau.
- Kia kìa…
Nó bồng nàng, lặng lẽ bước đến gần sợ dây-cáp rồi ngồi bệt xuống và trườn ra ngoài…
- Ê!...!...
Mọi người la lên. Vài người chạy lại… nhưng đã quá muộn. Nó ôm nàng, lao xuống đại dương từ độ cao mấy chục thước. Hai cái xác rơi xuống như hai tảng băng, chìm vào lòng đại dương rồi mất hút …
HẾT
Thanh Châu DL