VIẾT VỀ NHÀ THƠ VÕ CHÂN CỬU
Hôm nay ngày Noel 25/12/2020. Trời xám lạnh. Vì Covid 19 mà chính quyền tỉnh bang BC không cho đi thăm viếng nhau dù là thân nhân ruột thịt, nhà ai nấy ở.
Thời tiết, dịch bệnh làm Noel năm nay buồn thê thảm. Như xát thêm muối vào vết thương, ngày 17/12 tôi viết về nhà văn Hoàng Hải Thủy thì hôm nay tôi lại phải viết về nhà thơ Võ Chân Cửu. Cách nhau có 8 ngày.
Hoàng Hải Thủy từ trần ngày 5/12/2020 thọ 88 tuổi. Võ Chân Cửu từ trần 23/12/2020 thọ 68 tuổi.
Đây là hai thế hệ khác nhau. Võ Chân Cửu thuộc về thế hệ của tôi, thế hệ trung gian.
Một mặt, chúng tôi đã đủ trưởng thành để hiểu về cuộc chiến tranh Việt Nam, về sự khác biệt giữa hai chế độ Cộng Sản và Việt Nam Cộng Hòa, không như các em cháu sau này trưởng thành trong chế độ cộng sản nên không biết sự khác biệt (khó lắm, làm sao để so sánh hai món ăn khi người ta chỉ ăn có một món). Mặt khác, chúng tôi không quá già quá lớn để dính líu sâu đậm vào cuộc chiến tranh, để có ân oán nợ máu với người cộng sản. Cho nên ở lại trong nước thì chúng tôi vẫn có khả năng thay đổi để thích hợp với chế độ cộng sản, sống sót và thậm chí làm giàu. Còn ra nước ngoài thì chúng tôi thuộc loại trung dung, không chống cộng ồn ào triệt để như thế hệ anh chú nhưng cũng không thể vô tư, vô thành kiến với chế độ cộng sản như các em cháu lớn lên ở nước ngoài. Thế hệ chúng tôi là thế hệ cầu nối. Chúng tôi dễ dàng nói chuyện với cả hai thế hệ: thế hệ Hoàng Hải Thủy và thế hệ Johnny Trí Nguyễn, vì chúng tôi là một nửa của mỗi thế hệ.
Võ Chân Cửu, Trịnh Y Thư (vietvancouver.ca giới thiệu Trịnh Y Thư ) và tôi đều viết lách năm chúng tôi khoảng 15 tuổi. Chúng tôi tham gia mục văn nghệ thiếu niên của những trang nhật báo Ngôn Luận (do anh Vũ Uyên Giang phụ trách) hay báo Sống (do chị Tâm Thanh phụ trách). Chúng tôi làm bạn với nhau qua những trang văn nghệ này. Cùng thế hệ chúng tôi là Nguyễn Tất Nhiên, Từ Kế Tường, Đinh Tiến Luyện, Nguyễn Chánh Tín.
Trịnh Y Thư và tôi sống ở Saigon. Võ Chân Cửu sống ở Qui Nhơn. Đến năm 1968 thì Võ Chân Cửu xin chuyển vào học lớp 11C Chu văn An, lớp tôi đang học. Cậu thiếu niên tỉnh lẻ Võ Văn Hưng lúc nào cũng trầm ngâm ít nói, rất lặng lẽ trong lớp. Võ Văn Hưng phải thuê nhà, nấu cơm, ở chung với vài bạn miền Trung. Thế là 3 chúng tôi có dịp gặp gỡ nhau. Tôi và Võ Chân Cửu học ban C, nghĩa là chuyện viết lách thơ văn từ sớm có thể giải thích vì sao chúng tôi chọn học ban văn chương sinh ngữ. Nhưng Trịnh Y Thư là dân ban B, giỏi toán học và lý hóa, thế mà lại còn có tâm hồn nghệ sĩ hơn cả Cửu và tôi, vì ngoài viết lách còn thêm ngón đàn Tây ban cầm cổ điển. Trịnh Y Thư ngày ấy lấy tên Thụy Khuê, nơi sinh ra. Còn tôi là Hoàng Tiểu Văn, cho mình là một văn sĩ nhỏ. Võ Chân Cửu bắt đầu nổi tiếng hơn hai chúng tôi trong lãnh vực văn học nghệ thuật với bài thơ Chùa Cổ Bên Sông đăng trên báo văn nghệ Khởi Hành năm 1969 (17 tuổi).
Ngay từ thời niên thiếu, Võ Chân Cửu đã già trước tuổi với phong thái nghiêm nghị, trầm tư. Hiếm thấy Võ Chân Cửu tươi cười hay đùa dỡn.
Đời chia như những nhánh sông.
Năm 1970, sau khi chúng tôi tốt nghiệp trung học, Trịnh Y Thư được cha mẹ cho đi Mỹ du học. Tôi lên Dalat học Chính Trị Kinh Doanh. Võ Chân Cửu ở lại Saigon theo học Văn khoa Đại học Vạn Hạnh. Khởi sự sống cuộc đời đi học xa nhà, cơm tháng nhà thuê, tôi thông cảm cho hoàn cảnh Võ Chân Cửu. Tôi chuyển qua bút hiệu Hoàng Trung Văn, cũng chỉ là viết lách tài tử vì bận rộn học hành, hè thì lo kiếm tiền bằng cách dạy kèm Anh văn cho học sinh trung học.
Năm 1972, Võ Chân Cửu khởi sự nổi tiếng trong làng văn học nghệ thuật miền Nam với tập thơ Tinh Sương (20 tuổi).
Đời chia như những nhánh sông lần nữa.
Năm 1974, Võ Chân Cửu tốt nghiệp Cử nhân Văn Chương, Trịnh Y Thư tốt nghiệp Bachelor of Science, tôi tốt nghiệp Cử nhân Chính Trị Kinh Doanh. Võ Chân Cửu tiếp tục được hoãn dịch quân sự vì học lên Cao học. Cho đến thời điểm 30/4/1975 thì thơ của Võ Chân Cửu đã xuất hiện trong hầu hết các tạp chí văn học nghệ thuật của miền Nam Viêt Nam như Văn, Bách Khoa, Tư Tưởng, Khởi Hành, Thời Tập, Chính Văn…
Sau khi chế độ Cộng hòa miền Nam sụp đổ thì tôi và Võ Chân Cửu ít gặp nhau vì chúng tôi quay cuồng trong việc thích nghi hội nhập với chế độ chính trị mới và với việc lo kiếm miếng ăn. Võ Chân Cửu lập gia đình, đi khu Kinh Tế Mới một thời gian, sống không nổi lại quay về Saigon.
Vì không có nợ máu ân oán gì với chế độ cộng sản, sau đó Võ Chân Cửu được chấp nhận trở thành ký giả cho báo Nông Nghiệp, sau đó nữa là báo Kinh Tế. 10 năm sau, tôi vượt biên sang Canada. Võ Chân Cửu sinh sống bằng ngòi bút, nghĩa là sống đích thực với con người mình, còn Trịnh Y Thư và tôi vẫn chỉ là viết lách tài tử. Tôi không trở thành Hoàng Đại Văn mà là Hoàng Hải Hồ. 3 chúng tôi lấy bút danh đều giữ lại họ thật của mình.
Tóm lại, 3 người bạn văn nghệ từ 1967 chúng tôi tượng trưng cho 3 mẫu cuộc đời tiêu biểu của người trí thức trẻ miền Nam Việt Nam khi chiến tranh chấm dứt: du học, ở lại và vượt biên. Mỗi người một phương, xa nhau ngàn vạn dậm.
Ông bố trẻ Võ Chân Cửu với hai gái một trai thời đầu thập niên 1980.
Như mấy chục triệu người miền Nam sau ngày thống nhất, Võ Chân Cửu có những lúc cùng quẫn đến độ thèm một viên gạch đứng rửa chân có mái che đầu cho khỏi ướt mưa (xem Bài ca túp lều ). Nhưng rồi nhờ sức sáng tác đều đặn, kiên trì, Võ Chân Cửu đã xuất bản 7 tác phẩm từ sau 1975, củng cố vị trí thi sĩ hàng đầu thế hệ trung gian trong làng văn học nghệ thuật Việt Nam toàn quốc (cùng lúc đó, cách đây gần 20 năm, thủ đô văn nghệ báo chí của người Việt nước ngoài là California cũng khởi sự biết đến nghệ sĩ đa tài Trịnh Y Thư, nghề kiếm cơm là software engineer, với kiến thức uyên bác về văn chương Đông Tây, người viết thế hệ trung gian đi theo con đường của Bùi Giáng và Phạm Công Thiện khai phá). Ngoài ra, Võ Chân Cửu may mắn có được người vợ bương chải là Huỳnh Hạnh nên cuộc sống lúc hậu vận tương đối khá giả hơn một số văn nghệ sĩ miền Nam nổi tiếng trước 1975 còn lại quê nhà.
Đỉnh cao sự nghiệp: thời kỳ làm ký giả Hưng Văn, cuộc sống hết gian khổ, phát tướng.
Võ Chân Cửu nổi danh trong làng văn nghệ nhiều hơn trong quần chúng, vì để nổi danh trong quần chúng, thơ phải gây rung động mà vẫn dùng lời lẽ đơn giản, trong sáng, dễ hiểu, tỷ dụ tiêu biểu là bài thơ Quê Hương của Đỗ Trung Quân. Thơ Võ Chân Cửu thuộc loại có chiều sâu, nhuốm mùi triết học và Phật pháp, giàu hình ảnh và ẩn dụ, người đọc phải suy đoán mà cũng không dám chắc đoán được đúng điều tác giả muốn nói, nghĩa là cao hơn trình độ thưởng ngoạn thơ trung bình của quần chúng.
Câu ngạn ngữ Anh: appearance is deceiving (vẻ ngoài lừa dối) áp dụng đúng cho Võ Chân Cửu. Vào giai đoạn cao niên, thời gian, thời tiết, môi trường và thuốc lá đã để lại những vết chém ngang dọc đầy mặt Võ Chân Cửu đến mức độ nhìn gồ ghề như dân anh chị giang hồ, nhưng thật ra khi tiếp xúc thì người ta nhận ra Võ Chân Cửu ăn nói nhỏ nhẹ, hiền lành, từ tốn.
Bạn có thể lầm nhà thơ Võ Chân Cửu với dân giang hồ dao búa.
Võ Chân Cửu rất quảng giao, quen biết rộng, sống chan hòa và chân tình trong giới văn nghệ, được nhiều người yêu mến. Cho nên Võ Chân Cửu có điều kiện để viết 2 tác phẩm về văn nghệ sĩ là 22 Tản Mạn và Theo Dấu Nhà Thơ. Căn nhà ở Bảo Lộc như một quán dừng chân cho bạn bè trên tuyến đường Saigon-Dalat-Saigon. Võ Chân Cửu đã sống cuộc đời hưu trí êm ả an nhàn cho đến khi nhắm mắt tại căn nhà này ở một thành phố hiền hòa, thời tiết thuộc loại tốt vì không quá nóng như Saigon nhưng vẫn nhiều nắng và không mưa dai như Dalat. Thành phố này nằm ở vị trí chiến lược, ở giữa một trung tâm phồn hoa đô hội và một nơi du lịch, hưởng tuần trăng mật.
Cuối năm 2014, khi tôi về nước dạy một khóa Anh ngữ tại thành phố Hạ Long, Võ Chân Cửu đi giang hồ tạt ngang thăm tôi. Chúng tôi có dịp thưởng thức cua Cù Kỳ và tôm Bề Bề của tỉnh Quảng Ninh. Thật là kỷ niệm khó quên. Càng không thể quên vì đây là cái job dậy Anh ngữ đầu tiên mà tôi bắt được sau khi tốt nghiệp khóa đào tạo Giáo viên Dậy Anh ngữ của Vancouver Community College hồi đầu năm. Tôi cũng có dịp ghé nhà ở Bảo Lộc của Võ Chân Cửu mấy lần. Đầu năm 2016, khi tôi đang dạy Anh ngữ ở Nha Trang, Võ Chân Cửu lại ghé thăm tôi. Đúng là Võ Chân Cửu thuộc loại "chân đi". Tôi có rủ Võ Chân Cửu sang chơi Vancouver ăn ở nhà tôi, nhưng anh bảo còn phải để dành tiền (Cửu có dịp đi thăm California một lần).
Võ Chân Cửu và Hoàng Hải Hồ 9/2014 vịnh Hạ Long
Võ Chân Cửu mất vì bệnh Viêm Tắc Phế Quản Mãn Tính (Chronic Obstructive Pulmonary Disease) giai đoạn cuối, do hút thuốc lá lâu ngày. Bệnh này sinh ra khó thở vì lượng oxy vào phổi chỉ còn 30% so với người thường và cũng gây ra sụt cân trầm trọng như ung thư (Cửu sụt 10kg). Trong cuộc nói chuyện online với tôi ngày 31/10/2020, anh đang uống café với bạn bè ở quán và cứ nói trớ đi bệnh tình của mình là đau cột sống, sinh teo cơ. Tôi đòi anh gửi hình cho xem, anh hứa sẽ về nhà gửi. Anh không làm lời hứa còn tôi thì không dám nhắc vì không dám ép anh gửi tấm hình lúc thể xác anh xuống cấp.
Chưa Noel nào buồn như Noel 2020: Năm cùng, tháng tận, dịch ở, người đi. Một cây cổ thụ văn học mà tôi ái mộ. Một thi sĩ bạn học thành danh đã biết nhau 53 năm dài.
Võ Chân Cửu đã chấm dứt cơn Đại Mộng. Võ Chân Cửu đã đi về miền Đại Hoang. Nếu năm 20 tuổi mà Võ Chân Cửu đã coi cuộc đời như một giấc mộng lớn thì tôi tin rằng lúc anh ra đi năm 68 tuổi anh chẳng có gì luyến tiếc. Con cái đã lớn, công đã thành, danh đã toại.
Có một đặc điểm của Võ Chân Cửu là giống Tô Thùy Yên, có khả năng làm những bài thơ dài lê thê như một giòng suối chẩy miên man. Sau đây mời bạn thưởng thức bài thơ Quê Nhà của Võ Chân Cửu viết khoảng 1970:
QUÊ NHÀ
Ta thấy từ vạn cổ
Ta đi từ bến mê
Mang một linh hồn nhỏ
Vô minh đưa lối về
Trăng sao giăng mờ tỏ
Trên mặt đất u sầu
Nhà ai còn bỏ ngõ
Tiếng buồn bay đêm thâu
Đêm nào chờ trăng lặn
Nghìn xưa sau bên hồ
Khi thấy trên trời vắng
Khói sương đã phủ mờ
Đêm nào trong rừng vắng
Theo gió bay qua đồi
Tâm tư còn nghe nặng
Khi sương tan khắp trời
Đêm nào bên nấm mộ
Nghe đất nói gì đâu
Riêng ta và hoa cỏ
Cùng đối bóng trăng thâu
Một nghìn năm sau đó
Trên trần gian không người
Ta tìm chi ở đó
Ôm nhau vùi ngủ thôi
Ta nghe lời em nói
Trong sao mọc đầu hôm
Và gió mây cũng gọi
Người về trên cô thôn
Ta nghe lòng giục giã
Trong khuya vắng canh gà
Mười năm theo mây nổi
Ta đánh mất quê nhà
Sớm mai trời đất nhẹ
Lòng ta như phiêu bồng
Nhìn non xa bé bé
Mây trắng chảy cùng sông
Vách núi sương gió xé
Phất phơ đám cỏ bồng
Đêm qua ai còn để
Trên lá một màu trăng
Trên tờ sương mới ướt
Còn nguyên những dấu hài
Bóng ai chừng đã khuất
Mờ mờ trong thiên nhai
Ai trên đường lối cũ
Vừa khuất sau đầu non
Khói mờ bay xứ xứ
Vầng trăng mất hay còn
Bên kia trời cũ kỹ
Rờ rỡ ánh triêu dương
Bên kia nguồn tự thỉ
Gió bụi tan vô thường
Qua bên rừng xa thẳm
Ấy nơi chốn cố hương
Đường mây dài xa lắm
Có ánh dương soi đường
Đường lên lên xuống xuống
Nào cửa động đầu non
Nhìn mây bay tám hướng
Từng cụm bé con con
Ánh dương vào lối núi
Nghìn mây trắng bay cao
Từ phương xa ta tới
Nhìn nhau ngửa mặt chào
Bước chân cao khỏi đất
Bỗng gặp ánh mặt trời
Gió rừng ngân tiếng hát
Như suối gieo trong đời
Ta đi về cố xứ
Nhà ai bên rừng cao
Hàng cây buồn ngái ngủ
Mây che biết đâu nào
Mây tụ đầu phương bắc
Ta đưa mau bước về
Có mặt trời đối mặt
Bóng ngày trôi lê thê
Trông hòn đá gốc cây
Chỗ này ta đã gặp
Nghìn xưa chừng ở đây
Có mây trôi rất thấp
Trông góc miễu kế bên
Chốn này ta đã quen
Linh hồn ai vất vưởng
Rêu khói thay nhang đèn
Ra bờ sông bến nước
Nhìn nước dẫn mây xa
Chốn này khi thuở trước
Ta chèo đò đi qua
Đằng xa khu mồ mã
Hình như ta đã nằm
Ai vừa bay qua đó
Có còn nhớ ta không
Bước ai đi xào xạc
Bên bờ vắng bụi hoang
Nhìn qua vừa tẻ ngắt
Lòng ta bỗng bàng hoàng
Thảy khắp nơi chốn cũ
Kiếp nào ta ở đây
Nghìn sau còn lai vảng
Vật vờ như hôm nay
Bước chân về muôn dặm
Đường trưa mờ bóng ma
Đôi mắt chừng u ám
Tiếng ngàn khi bay qua
Tấp về nơi xa thẳm
Theo bóng, một mình ta
Cảnh chừng quen thuộc lắm
Nhưng chẳng phải quê nhà
Ai đội mũ Phong Sơn
Nhẹ đi trên rừng thẳm
Nghe đôi chân đã mòn
Ánh mặt trời lấm tấm
Đường bước cao bước thấp
Trời cao đo bóng mình
Theo mây chân khẽ đạp
Nghe được tiếng lặng thinh
Bỗng bay về nườm nượp
Ngờ ngợ giữa minh minh
Tự hỏi không buồn đáp
Nhìn bóng ngọ chênh chênh
Chợt thấy bên đường cái
Cây che một mái nhà
Thềm êm lá vàng trải
Cởi áo nằm nghe trưa
Giấc vắng khi vừa tới
Quên hết chuyện nghìn xưa
Linh hồn bay xa mãi
Như lạc cõi hoang sơ
Tỉnh giấc nằm nghi ngại
Bóng người hay bóng ta
Ngó quanh đều vắng vẻ
Mái cong mấy hột mưa
Đằng trước sau trống trải
Một mình nghe gió đưa
Ngồi ôm đầu nghĩ ngợi
Phải chăng tiếng quê nhà
Cô độc dặm tà dương
In dày qua núi biếc
Mây trắng miền cố hương
Bay dưới chân người bước
Vầng trăng soi hư không
Chốn nào ta trở lại
Bước chân ngoài mênh mông
Nghe thấy đời xa mãi
Mây bay từ thiên cổ
Cùng nhau trời đất tan
Ta một linh hồn nhỏ
Vơ vẩn miền Đại Hoang
(Thi tập Tinh Sương, 1972)
Hoàng Hải Hồ
Vancouver 25/12/2020.